Bản án 70/2020/HSST ngày 24/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 70/2020/HSST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tạị Trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử lưu động công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2020/TLST-HS, ngày 05 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85 /2020/QĐXXST-HS ngày 13/ 11 /2020 đối với các bị cáo:

1-Đinh Thị N: Sinh năm 1985.

Trú tại: Xóm Đ, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Giới tính: Nữ.

Trình độ văn hóa: 09/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Đinh Viết L và con bà Lưu Thị D.

Chồng Nguyễn Xuân T (đã ly hôn), con có ba người lớn 15 tuổi, nhỏ 04 tuổi.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 26/6/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 03 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18 tháng 5 năm 2020. Có mặt tại phiên tòa.

2-Nguyễn Thị H: sinh năm 1991.

Trú tại: Xóm 14, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Giới tính: Nữ.

Trình độ văn hóa: 02/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông: Không xác định và con bà Cao Thị M.

Chồng Biện Văn H ( đã ly hôn), con có một người lớn 13 tuổi.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 23/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 06 tháng tù về tội “ Không tố giác tội phạm”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18 tháng 5 năm 2020. Có mặt tại phiên tòa.

3-Hoàng Kim H, sinh năm 1984.

Trú tại: Xóm Tân M, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Giới tính: Nam. Trình độ văn hóa: 12/12, Nghề nghiệp: Lái xe.

Con ông: Hoàng Kim L và con bà Dương Thị K.

Vợ Lê Ngọc Ánh (đã ly hôn), con có hai người lớn 11tuổi, nhỏ 10 tuổi. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18 tháng 5 năm 2020. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1-Ông Hoàng Kim L, sinh năm 1959. Vắng mặt. Trú tại: Xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

2-Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1960. Có mặt. Trú tại: Xóm Đ, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

3-Anh Lê Nam B, sinh năm 1992. Vắng mặt. Trú tại: Xóm H, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An.

Người làm chứng:

1-Anh Bùi Trung H, sinh năm 1995. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

2-Anh Lê Đức A, sinh năm 1997. Vắng mặt. Trú tại: Xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

3-Trần Văn H, sinh năm 1999. Vắng mặt. Trú tại: Xóm H, xã Đ, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

4-Ngô Văn D, sinh năm 1986. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 15 tháng 5 năm 2020 Đinh Thị N đi xuống V vào khu vực bến xe V mua ma túy với một người đàn ông không quen biết với số tiền là 1.600.000đ mua được ma túy Đinh Thị N đem về nhà chia thành nhiều gói nhỏ để bán và N đưa 10 gói ma túy cho Nguyễn Thị H bán giúp. Số còn lại thì N và Hoàng Kim H để bán cho các đối tượng nghiện, Đinh Thị N đã 04 lần bán trái phép chất ma túy cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 15/5/2020, tại nhà nghỉ Vila 1, xóm T, xã N, huyện Q Đinh Thị N và Hoàng Kim H đã bán 01 gói ma túy cho Bùi Trung H với giá 500.000đ.

Lần 2: Vào hồi 18 giờ 30 phút, ngày 17/5/2020, tại ốt số 3 thuộc dãy nhà trọ của bà Nguyễn Thị M ở xóm H, xã T, Q Đinh Thị N đã bán cho Nguyễn Văn T 01 gói ma túy dạng đá với giá 700.000đ ( gói ma túy này T mua giúp cho Lê Đức A).

Lần 3: Vào khoảng 20 giờ, ngày 17/5/2020 tại sân nhà nghỉ Q xóm Đ, xã N, Q Nguyễn Thị H đã bán cho Ngô Văn D 01 gói ma túy Methamphetamine với giá 300.000đ.

Lần thứ 4: Vào khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 17/5/2020 tại nhà nghỉ Q xóm Đ, xã N, Q Nguyễn Thị Hc đã bán cho Trần Văn H 01 gói ma túy Methamphetamine với giá 300.000đ.

Vào khoảng 22 giờ ngày 17/5/2020 sau khi bán hết số ma túy mà Đinh Thị N đưa cho thì Nguyễn Thị H gọi điện cho N để giao tiền và lấy thêm ma túy thì được N chỉ đạo đưa số tiền 2.300.000đ đến giao cho Nguyễn Xuân T ( là chồng cũ của N) và lấy tiếp ma túy đá mà N cất dấu tại chậu cây cảnh phía trước nhà ở của N. Sau khi lấy được ma túy thì đến lúc 23 giờ ngày 17/5/2020 Công an huyện Q kiểm tra phát hiện phòng nghỉ của Nguyễn Thị H tàng trữ trái phép chất ma túy thu giữ của H 13 gói ma túy dạng đá (Methamphetamine) có khối lượng 3,2 gam và 01 gói Hê rô in có khối lượng 0,2 gam, cùng tại thời điểm trên Công an huyện Q phát hiện bắt quả tang tại phòng trọ của Đinh Thị N và Hoàng Kim H thu giữ 01 gói ma túy dạng đá của Đinh Thị N có trọng lượng là 3,0 gam.

Nguyễn Thị H đã bán số ma túy do Đinh Thị N đưa lần trước được số tiền là 4.700.000 đ, số tiền này H đã đưa cho N 2.400.000đ, còn 2.300.000đ đưa cho chồng cũ của N là Nguyễn Xuân T, tuy nhiên tại phien Tòa hôm nay Đinh Thị N không thừa nhận Nguyễn Thị H đã đưa số tiền trên. Do vậy Đinh Thị N phải chịu trách nhiệm hình sự với 04 lần mua bán trái phép chất ma túy và trọng lượng ma túy thu được của Nguyễn Thị H.

Bản kết luận giám định số: 677/ KL- PC09 ngày 25/ 5 /2020 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Hai mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Nguyễn Thị H gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị H có tổng khối lượng là 3,20 gam.

Mẫu chất bột nén màu trắng ký hiệu M3 thu giữ của Nguyễn Thị H gửi tới giám định là ma túy (Hê rô in). Số chất bột nén màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị H có khối lượng là 0,2 gam.

Bản kết luận giám định số: 678/ KL- PC09 ngày 25/ 5 /2020 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ trên bàn trang điểm ki ốt số 3 do Hoàng Kim Hà thuê gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ trên bàn trang điểm trong ki ốt số 3 do Hoàng Kim H thuê có khối lượng 3,0 gam.

Bản cáo trạng số: 67/CT-VKS - QH ngày 04/ 10 /2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Đinh Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251, Nguyễn Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS và Hoàng Kim H về tội về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Đinh Thị N, Nguyễn Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS, Hoàng Kim H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Đinh Thị N từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng buộc bị cáo phải chấp 06 tháng tù của bản án số 33/2020/HSST ngày 23/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Q. Bị cáo phải chấp hành cho cả hai Bản án là 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Hoàng Kim H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về việc “ Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[ 1 ]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng.

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2 ]. Những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội.

Lời khai của bị cáo, người làm chứng, kết luận số: 677/ KL- PC09 và Kết luận số 678/ KL- PC09 ngày 25/ 5 /2020 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản mở niêm phong lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau; Đinh Thị N, Nguyễn Thị H và Hoàng Kim H đều là người nghiện ma túy, các bị cáo đã thuê nhà nghỉ để hoạt động mua bán ma túy, Đinh Thị N đã xuống V mua ma túy về để sử dụng và bán, N đã đưa số ma túy cho Nguyễn Thị H để bán giúp và Hoàng Kim H cũng đã bán 01 gói ma túy cho Bùi Trung H. Lần thứ nhất Đinh Thị N và Hoàng Kim H bán 01 gói ma túy cho Bùi Trung H với giá 500.000đ. Lần thứ hai Đinh Thị N bán 01 gói ma túy cho Nguyễn Văn T ( do Lê Đức A nhờ T mua hộ) với giá 700.000đ. Lần thứ ba Nguyễn Thị H bán Ngô Văn D 01 gói ma túy giá 300.000đ. Lần thứ tư Nguyễn Thị H bán 01 gói ma túy cho Trần Văn H giá 300.000đ. Số ma túy mà Nguyễn Thị H bán này là ma túy của Đinh Thị N đưa H bán hộ, do vậy Đinh Thị N phải chịu trách nhiệm hình sự về số ma túy mà H đã bán giúp cho N. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Đinh Thị N về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy ” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251, Nguyễn Thị H về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS và Hoàng Kim H về tội về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251BLHS là có căn cứ.

[ 3 ]. Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đây là một vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng cố ý thực hiện một tội phạm, trong vụ án này bị cáo Đinh Thị N có vai trò chính, còn bị cáo Nguyễn Thị H, Hoàng Kim H có vai trò thứ yếu.

Bị cáo Ngân Thị N là một đối tượng nghiện chất ma túy, có nhân thân xấu, không có tiền án, tiền sự và không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có vai trò chủ mưu trong vụ án, bị cáo phạm tội nhiều lần đây là tình tiết định khung, có số lượng ma túy là 6,2 gam. Bị cáo có một tình tiết giảm nhẹ là thật thà khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo trở thành một con người có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị H là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tiền án, tiền sự có nhân thân xấu đó là trong quá trình chuẩn bị xét xử bị cáo về tội “Không tố giác tội phạm” thì bị cáo phạm tội mới, bị cáo có vai trò giúp sức trong vụ án, không có tình tiết tăng nặng. bị cáo phạm tội nhiều lần đây là tình tiết định khung, có số lượng ma túy là 3,2 gam. Bị cáo có một tình tiết giảm nhẹ là thật thà khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo trở thành một con người có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo Nguyễn Thị H và Đinh Thị N phạm tội rất nghiêm trọng.

Đối với bị cáo Hoàng Kim H có vai trò thứ yếu, bị cáo là một đối tượng nghiện chất ma túy, bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhân thân, bị cáo có vai trò giúp sức, thứ yếu. Đó là bị cáo bán một gói ma túy cho Bùi Trung H. Bị cáo không có tình tiết tặng. Bị cáo có một tình tiết giảm nhẹ là thật thà khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo trở thành một con người có ích cho gia đình và xã hội.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Hành vi này làm mất ổn định trật tự tại địa bàn và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội.

[ 4 ]. Vật chứng: Áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có vỏ bao niêm phong và 2,8 g (Methamphetamine) 01 phong bì bên trong có 01 tờ giấy kim loại màu bạc, 01 phong bì bên trong có một chiếc lửa ga màu đỏ và 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, 01 tờ giấy kim loại màu bạc, 01 chiếc ống thủy tinh được uốn cong thu tại nơi ở của Hoàng Kim H, Đinh Thị N và 01 phong bì thư bên trong có các mãnh bao gói, 01 phong bì thư bên trong có 2,9 gam (Methamphetamine), 01 phong bì thư bên trong có 0,1 gam Hê Rô in thu giữ của Nguyễn Thị H, tịch thu 01 hộp kim loại bên trong có dòng chữ “ SENATOR” bên trong có 08 túi polyetylen màu trắng và 01 ống hút nhựa màu xanh, 02 chiếc nắp nhựa màu xanh và 01 chiếc bật lửa ga màu trắng, 01 túi xách màu đen của Nguyễn Thị Hương L giao nộp.

Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, loại 105, màu đen, số I mail 353101115444423, máy đã qua sử dụng thu của Nguyễn Thị H. Chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án huyện dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.

tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 2.300.000đ thu của Nguyễn Xuân T đang tạm gửi tại kho Bạc Nhà nước huyện Quỳ Hợp theo biên bản giao nhận số 10/2020/BBBG, ngày 07/9/2020 của Kho Bạc Nhà nước Quỳ Hợp.

Truy thu số tiền mà bị cáo Đinh Thị N do bán ma túy mà có đó là số tiền 500.000đ bán ma túy cho Bùi Trung H, 700.000đ bán ma túy cho Nguyễn Văn T (Tuấn mua hộ cho Lê Đức A) do Đinh Thị N phạm tội mà có.

Trả lại cho Nguyễn Thị H 02 điện thoại di động đó là điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J4 màu vàng, 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel, màu xanh, hai điện thoại đã qua sử dụng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị H, số tiền 220.000đ. Trả lại cho Hoàng Kim H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XR, màu trắng máy đã qua sử dụng và 02 quyển sổ ghi chép, Đinh Thị N 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS, màu vàng gold máy đã qua sử dụng và 01 xe máy mang BKS 37G1-668.23, trả lại cho anh Lê Nam B 01 chiếc xe máy BKS 37B2-314.93, 01 giấy đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Thị H, 01 chiếc chìa khóa xe máy BKS 37B2-314.93, trả lại cho Nguyễn Xuân T số tiền là 1.150.000đ.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng” do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo là các đối tượng nghiện chất ma túy, kinh tế gia đình khó khăn, do vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Đinh Thị N và Nguyễn Thị H không xác minh được họ tên, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đối với người đàn ông mua ma túy của Nguyễn Thị H là N (Cọt), H, Đ không xác minh được họ tên, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đối với người thanh niên có tên là Phạm Thanh H là người giao xe máy cho Bùi Trung H đi cầm cố hiện nay đang vắng mặt tại địa phương nên chưa làm rỏ được.

Đối với Trần Chí H có thuê phòng ở, sau đó N và H đến chơi và có bán ma túy cho Bùi Trung H nhưng không biết việc mua bán trái phép chất ma túy này.

Đối với Nguyễn Văn T mua hộ ma túy cho Lê Đức A, số ma túy này Lê Đức A đã sử dụng hết, do đó không xác định được trọng lượng số ma túy này nên không có cơ sở để xử lý T Và Lê Đức A. Đối với Bùi Trung H, Lê Đức A, Trần Văn H, Ngô Văn D có hành vi mua ma túy với Đinh Thị N và Nguyễn Thị H Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Kiến nghị đến các Cơ quan chức năng quản lý về lĩnh vực kinh doanh có điều kiện trên địa bàn huyện Quỳ Hợp nói chung và tại khu vực hai xã N và T, thị trấn Q nói riêng cần tăng cường kiểm tra giám sát. Không để tình trạng xẩy ra các tụ điểm mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy tại các nhà nghỉ, nhà trọ và khách sạn trong thời gian tới. Đề nghị cần phải có biện pháp nghiêm khắc để chấn chỉnh lại việc hoạt động trong lĩnh vực này.

[ 5 ] Về án phí. Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Đinh Thị N, Hoàng Kim H và Nguyễn Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng: Điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Đinh Thị N: 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là 18/ 5 /2020.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 BLHS.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H: 07 (bảy) năm tù buộc bị cáo phải chấp 06(sáu) tháng tù của bản án số 33/2020/HSST ngày 23/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai Bản án là 07 (bảy) năm 06(sáu) tháng tù. Nhưng được trừ thời hạn tạm giữ tạm giam của bản án số 33/2020/HSST ngày 23/6/2020 ( từ ngày 27/12/2019 đến 05/01/2020). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là 18/ 5 /2020. Áp dụng: khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

-Xử phạt bị cáo Hoàng Kim H: 02 (hai) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 18/5/2020.

- Áp dụng: Điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có vỏ bao niêm phong và 2,8 g (Methamphetamine), 01 phong bì bên trong có 01 tờ giấy kim loại màu bạc, 01 phong bì bên trong có một chiếc lửa ga màu đỏ và 01 chiếc bật lửa ga màu xanh, 01 tờ giấy kim loại màu bạc, 01 chiếc ống thủy tinh được uốn cong thu tại nơi ở của Hoàng Kim H, Đinh Thị N và 01 phong bì thư bên trong có các mãnh bao gói, 01 phong bì thư bên trong có 2,9 gam (Methamphetamine), 01 phong bì thư bên trong có 0,1 gam Hê Rô in thu giữ của Nguyễn Thị H, tịch thu 01 hộp kim loại bên trong có dòng chữ “ SENATOR” bên trong có 08 túi polyetylen màu trắng và 01 ống hút nhựa màu xanh, 02 chiếc nắp nhựa màu xanh và 01 chiếc bật lửa ga màu trắng 01 túi xách màu đen của Nguyễn Thị Hương L giao nộp. Chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án huyện dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, loại 105, màu đen, số I mail 353101115444423, máy đã qua sử dụng thu của Nguyễn Thị H Chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án huyện dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.

tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 2.300.000đ thu của Nguyễn Xuân T đang tạm gửi tại kho Bạc Nhà nước huyện Quỳ Hợp theo biên bản giao nhận số 10/2020/BBBG, ngày 07/9/2020 của Kho Bạc Nhà nước Quỳ Hợp.

Truy thu số tiền mà bị cáo Đinh Thị N do bán ma túy mà có đó là số tiền 500.000đ bán ma túy cho Bùi Trung H, 700.000đ bán ma túy cho Nguyễn Văn T (T mua hộ cho Lê Đức A) do bị cáo Đinh Thị N phạm tội mà có.

Trả lại cho Nguyễn Thị H 02 điện thoại di động đó là điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J4 màu vàng và 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel, màu xanh, hai điện thoại đã qua sử dụng , 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị H. Trả lại cho Hoàng Kim 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XR, màu trắng máy đã qua sử dụng và 02 quyển sổ ghi chép, Đinh Thị N 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS, màu vàng gold máy đã qua sử dụng và 01 xe máy mang BKS 37G1-668.23, trả lại cho anh Lê Nam B 01 chiếc xe máy BKS 37B2- 314.93, 01 giấy đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Thị H, 01 chiếc chìa khóa xe máy BKS 37B2-314.93. Chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án huyện dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An, trả lại cho Nguyễn Xuân T số tiền là 1.150.000đ(Một triệu một trăm năm mươi nghìn) và Nguyễn Thị H số tiền 220.000đ (hai trăm hai mươi nghìn) đang tạm gửi tại kho Bạc Nhà nước huyện Q theo biên bản giao nhận số 10/2020/BBBG, ngày 07/9/2020 của Kho Bạc Nhà nước Quỳ Hợp.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Đinh Thị N, Nguyễn Thị H và Hoàng Kim H mỗi bị cáo phải chịu án phí HSST là 200.000đ (Hai trăm ngàn) đồng Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2020/HSST ngày 24/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về