Bản án 70/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 70/2020/HS-ST NGÀY 16/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Hoàng G, sinh năm 1988, tại tỉnh Sóc Trăng; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Khu phố T, phường L, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Võ Thị N; vợ là Nguyễn Thị C; con: Có 02 người con (người lớn sinh năm 2016, người nhỏ sinh năm 2017); tiền án: Tại Bản án số 117/2013/HSPT ngày 21-11-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tuyên phạt Trần Hoàng G 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 07-4-2014, chưa chấp hành về trách nhiệm dân sự; tiền sự: Không; bị bắt quả tang ngày 03-7-2020, tạm giữ ngày 04-7- 2020, tạm giam từ ngày 10-7-2020 đến nay; bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03-7-2020, Công an thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh kiểm tra Phòng số 02 nhà nghỉ “S” thuộc khu phố B, phường A, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, phát hiện bắt quả tang Trần Hoàng G đang tàng trữ trái phép 04 đoạn ống hút nhựa trong suốt có sọc trắng, được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể trong suốt (nghi là chất ma túy, ký hiệu M) bên trong khẩu trang y tế màu xanh được gói lại để trong bồn cầu nhà vệ sinh. Thu giữ thêm số tiền Việt Nam 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng và một số vật chứng khác có liên quan.

Qua điều tra, thể hiện: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03-7-2020, do có nhu cầu sử dụng chất ma túy nên G đi xe buýt đến khu vực Bến xe An Sương, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh gặp người đàn ông tên “T” (không rõ họ tên, địa chỉ) mua 01 bịch chất ma túy với số tiền 600.000 đồng. Sau khi mua được chất ma túy, G về Phòng trọ số 02 nhà nghỉ “S” chia chất ma túy ra bỏ vào 04 đoạn ống hút nhựa trong suốt có sọc trắng, hàn kín hai đầu rồi cất giấu vào khẩu trang y tế màu xanh được gói lại để trong bồn cầu nhà vệ sinh. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, G bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 995/KL-KTHS ngày 07-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu tinh thể trong suốt bên trong 04 (bốn) đoạn ống hút nhựa trong suốt có sọc trắng, được hàn kín hai đầu (ký hiệu M) là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3165 gam.

Cáo trạng số 72/CT-VKSTrB ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng đã truy tố Trần Hoàng G về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Hoàng G từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không có giá trị và trả lại vật, tiền không liên quan đến việc thực hiện tội phạm cho bị cáo gồm 300.000 đồng tiền Việt Nam, 01 điện thoại di động và 01 căn cước công dân.

- Về án phí: Bị cáo G phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo G thừa nhận: Hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Bị cáo Trần Hoàng G là người nghiện ma túy nên vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03-7-2020, bị cáo đi đến khu vực Bến xe An Sương, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh gặp người đàn ông tên “T” (không rõ họ tên, địa chỉ) mua 01 bịch chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua được chất ma túy, G thuê Phòng trọ số 02 nhà nghỉ “S” chia chất ma túy ra bỏ vào 04 đoạn ống hút nhựa trong suốt có sọc trắng, hàn kín hai đầu rồi cất giấu vào khẩu trang y tế màu xanh được gói lại để trong bồn cầu nhà vệ sinh. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Căn cứ vào Kết luận giám định số 995/KL-KTHS ngày 07-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu tinh thể trong suốt bên trong 04 (bốn) đoạn ống hút nhựa trong suốt có sọc trắng, được hàn kín hai đầu (ký hiệu M) là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3165 gam.

Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hành vi của bị cáo Trần Hoàng G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo biết rõ việc sử dụng trái phép chất ma túy gây nguy hại cho sức khỏe con người, nhưng bị cáo vẫn cố ý tàng trữ chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng. Từ hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến hành vi phạm tội nghiêm trọng và gây nhiều hệ lụy cho xã hội, làm phát sinh nhiều tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 09-7-2009, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích. Sau khi chấp hành án xong, bị cáo không tự tu dưỡng, rèn luyện thành người có ích cho gia đình, xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội khác. Do đó, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử còn xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Cụ thể:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án: Tại Bản án số 117/2013/HSPT ngày 21-11-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tuyên phạt Trần Hoàng G 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong án phạt tù ngày 07-4- 2014, chưa chấp hành về trách nhiệm dân sự, chưa được xóa án tích nhưng lại cố ý tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của bị cáo. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra, xác minh bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người tên “T” đã bán chất ma túy cho bị cáo G, hiện không rõ họ tên, địa chỉ nên chưa làm việc được, Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ để xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo G, Công an thị xã Trảng Bàng đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp. [6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) phong bì được niêm phong vụ số 995/KL-KTHS có chữ ký của Giám định viên và trợ lý giám định. Sau khi giám định, bên trong còn lại 0,1908 gam chất ma túy, loại Methamphetamine là chất cấm lưu hành nên tuyên tịch thu, tiêu hủy.

Đối với tiền Việt Nam: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo G: Số tiền này không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên tuyên trả cho bị cáo G nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone màu xám đen, số EMEI:

352050077160009, bên trong có sim số 0981119127 (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo G: Điện thoại di động này không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên trả lại cho bị cáo G.

Đối với 01 khẩu trang y tế màu xanh (đã qua sử dụng); 01 cây kéo bằng kim loại, màu trắng có cán màu xanh (đã qua sử dụng); 01 dao lam hiệu Bic màu trắng (đã qua sử dụng); 01 bật lửa màu xanh (đã qua sử dụng) là dụng cụ bị cáo G dùng cho việc cất giấu và sử dụng ma túy, không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo G 01 căn cước công dân tên Trần Hoàng G.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng tại phiên tòa về mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Hoàng G 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 04-7-2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

2.1. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 (một) phong bì được niêm phong vụ số 995/KL-KTHS có chữ ký của Giám định viên và trợ lý giám định. Sau khi giám định, bên trong còn lại 0,1908 gam chất ma túy, loại Methamphetamine.

- 01 khẩu trang y tế màu xanh (đã qua sử dụng):

- 01 cây kéo bằng kim loại, màu trắng có cán màu xanh (đã qua sử dụng):

- 01 dao lam hiệu Bic màu trắng (đã qua sử dụng):

- 01 bật lửa màu xanh (đã qua sử dụng).

2.2. Trả lại tài sản không liên quan đến việc thực hiện tội phạm cho bị cáo G, bao gồm:

- 01 căn cước công dân tên Trần Hoàng G.

- Số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, tiền Việt Nam, nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

- 01 điện thoại di động Iphone màu xám đen, số EMEI: 352050077160009, bên trong có sim số 0981119127 (đã qua sử dụng).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Hoàng G phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về