Bản án 70/2020/HSST ngày 12/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 70/2020/HSST NGÀY 12/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 62/2020/HSST ngày 01 tháng 7 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXXST – HS ngày 01 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ngô Bá T, sinh năm 1977, tại tỉnh H.

Nơi cư trú: ấp 5, xã S, huyện C, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Bá D(đã chết) và bà Nguyễn Thị D; bị cáo chưa có vợ. Tiền án: không; Ngày 08/7/2008, TAND quận B, TP M xử phạt Ngô Bá T 10 năm tù về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo bản án số: 140/2008/HSST, ngày 17/10/2019, Ngô Bá T đã nộp xong tiền phạt 10.000.000 đồng, số tiền án phí 50.000 đồng được miễn theo quyết định số 09 ngày 29/6/2015, ngày 09/9/2014 chấp hành xong hình phạt tù; thuộc trường hợp đã được xóa án.

Tiền sự: không; Ngày 31/8/2000, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Đ ra quyết định số 2289 về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 24 tháng. Ngày 30/9/2002 chấp hành xong thời hạn giáo dục.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/3/2020 cho đến nay (bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 23/3/2020, Ngô Bá T thuê taxi đi từ nhà nghỉ D thuộc thôn B, xã L, huyện F đến khu vực phường N, Thị xã Y, tỉnh K mua 01 gói ma túy, loại methamphetamine với giá 1.000.000 đồng của một người đàn ông (không rõ nhân T, lý lịch), sau khi mua xong ma túy T quay về nhà nghỉ D để nghỉ ngơi. Khoảng 13 giờ ngày 24/3/2020, T lấy ra 01 ít ma túy để sử dụng, số ma túy còn lại T chia ra làm 02 phần cho vào 02 bịch nylon và bỏ trên bàn trong phòng số 17 để sử dụng dần, đến 19 giờ cùng ngày Công an huyện F kiểm tra phòng số 17, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật (ký hiệu M có chữ ký của T) để xử lý theo pháp luật.

Tại bản giám định số: 70/2020/GĐ-MT ngày 27/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: Chất màu trắng có trong 02 gói nylon (ký hiệu M có chữ ký của T) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 3,4449 gam, loại Methamphetamine.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị can Ngô Bá T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Về vật chứng vụ án: 01 phong bì đã niêm phong số ma túy còn lại sau giám định; 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng; 01 ống thủy tinh, một đầu được uốn cong có hình phễu. Ngày 23/6/2020, Cơ quan điều tra chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng để phục vụ việc truy tố, xét xử.

Tại bản cáo trạng số: 66/CT –VKS ngày 30/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố các bị cáo Ngô Bá T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Bá T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ngô Bá T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định và 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng; 01 ống thủy tinh, một đầu được uốn cong có hình phễu.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Ngô Bá T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo Ngô Bá T: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 20 giờ ngày 23/3/2020, Ngô Bá T thuê taxi đi từ huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước đến khu vực phường N, Thị xã Y, tỉnh K mua 01 gói ma túy, loại methamphetamine với giá 1.000.000 đồng của một người đàn ông không rõ nhân T, lý lịch, sau khi mua xong ma túy T quay về nhà nghỉ Thiên D tại xã L, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước để nghỉ ngơi. Khoảng 13 giờ ngày 24/3/2020, T lấy ra 01 ít ma túy để sử dụng, số ma túy còn lại T chia ra làm 02 phần cho vào 02 bịch nylon và bỏ trên bàn trong phòng số 17 để sử dụng dần, đến 19 giờ cùng ngày Công an huyện Bù Đăng kiểm tra phòng số 17, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật.

Tinh thể chất màu trắng (ký hiệu M) thu giữ đượckết luận giám định là Methamphetamine, có khối lượng 3,4449 gam.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Ngô Bá T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do bị cáo có lối sống buông thả, dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý phạm tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nhưng bị cáo có nhân T xấu đã từng bị xử phạt tù về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt, đã được xóa án tích; đã từng bị xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản T mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Ngoài ra, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có mẹ đã già.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân T của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 1 Điều 47, Khoản 1 Điều 48 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Cần tiêu hủy Số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước và 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng; 01 ống thủy tinh, một đầu được uốn cong có hình phễu.

[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo không xác định được nhân T lai lịch, không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Ngô Bá T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ngô Bá T 02 ( hai) năm 06 ( sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2020.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước và 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng; 01 ống thủy tinh. Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0009791 ngày 23/6/2020 giữa Chi cục Thi hành án và Công an huyện Bù Đăng.

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Ngô Bá T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2020/HSST ngày 12/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về