Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 04/08/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TRI – TỈNH BẾN TRE

 BẢN ÁN 70/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 04 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tri xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 304/2020/TLST-HNGĐ ngày 01/7/2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2020/QĐST - HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lý Quang V, sinh năm 1975.

Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Huỳnh Trúc L, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/6/2020, nguyên đơn anh Lý Quang V trình bày:

Về hôn nhân: anh V và chị Huỳnh Trúc L tự nguyện kết hôn năm 2004 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre vào ngày 01/11/2004. Sau khi kết hôn, thời gian đầu hai bên chung sống rất hạnh phúc. Đến năm 2016 thì vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Từ tháng 12/2016 đến nay vợ chồng đã sống ly thân cùng nhau. Nay thấy hôn nhân không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh V yêu cầu ly hôn với chị L.

- Về con chung: Quá trình chung sống, anh V và chị L có 03 con chung tên Lý Huỳnh Quế H, sinh ngày 19/4/2005, Lý H1, sinh ngày 01/12/2007 và Lý Huỳnh Thiện T, sinh ngày 17/4/2016, hiện các con chung đang sống cùng chị L. Khi ly hôn, anh V đồng ý để con chung cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng đến khi trưởng thành và anh V không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có Trong quá trình tố tụng, ngày 02/7/2020 chị Huỳnh Trúc L làm bản tự khai nộp cho Tòa án với nội dung trình bày như sau:

Năm 2001 chị và anh V sống như vợ chồng, năm 2004 đôi bên đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B. Hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng sống chung có với nhau 03 người con là Lý Huỳnh Quế H, sinh ngày 19/4/2005, Lý H1, sinh ngày 01/12/2007 và Lý Huỳnh Thiện T, sinh ngày 17/4/2016. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Từ cuối năm 2016 đến nay, vợ chồng rất nhiều lần gây cãi làm cho cuộc sống chung không hạnh phúc và vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân đôi bên có nói chuyện, đã từng hàn gắng để tiếp tục chung sống nhưng rồi mâu thuẫn và quan điểm sống không đồng thuận dẫn đến tình cảm vợ chồng hiện nay không còn. Vậy nên, anh V có yêu cầu ly hôn thì chị L đồng ý.

Về con chung: Khi ly hôn , chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 03 con chung tên Lý Huỳnh Quế H, sinh ngày 19/4/2005, Lý H1 sinh ngày 01/12/2007 và Lý Huỳnh Thiện T, sinh ngày 17/4/2016 đến khi trưởng thành và chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Đôi bên tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có Tại biên bản xác minh ngày 03/7/2020 của Tòa án đối với địa phương xã An Thủy xác định: Anh Lý Quang V và chị Huỳnh Trúc L kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B vào ngày 01/11//2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại ấp A, xã B, huyện C. Vợ chồng có 03 con chung, vợ chồng có mối quan hệ tốt với xóm giềng. Vào năm 2019 vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, theo chị L xác định là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống còn nguyên nhân thực tế dẫn đến việc xin ly hôn của anh V hiện nay thì địa phương cũng không rõ.

Tại các biên bản của Tòa án ngày 09/7/2020 về việc lấy ý kiến con chung của anh V, chị L thì hai cháu Lý Huỳnh Quế H, sinh ngày 19/4/2005 và Lý H1, sinh ngày 01/12/2007 đều có nguyện vọng sống cùng chị L nếu chị L và anh V ly hôn.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

- Về thủ tục: Xét thấy trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, Thẩm phán đã tuân thủ và tiến hành đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng, nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, có làm đơn không yêu cầu hòa giải và xin xét xử vắng mặt nên HĐXX tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Thành viên HĐXX thể hiện sự vô tư, khách quan, độc lập khi xét xử. Vụ án được đưa ra xét xử vắng mặt đương sự là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX chấp nhận cho anh V ly hôn với chị L. Về con chung: giao 03 con chung cho chị L nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát. HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho nguyên đơn anh V, bị đơn chị L nhưng anh V, chị L có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh V, chị L.

[2] Về quan hệ hôn nhân: anh Lý Quang V và chị Huỳnh Trúc L kết hôn năm 2004 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B theo quy định pháp luật vào ngày 01/11/2004. Do đó, hôn nhân của anh V, chị L là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình giải quyết vụ án anh V, chị L đều cho rằng giữa đôi bên thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, đôi bên đã từng hàng gắng nhưng không có kết quả. Cụ thể là càng ngày mâu thuẫn đôi bên càng trầm trọng, hai bên chính thức sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Anh V, chị L xác định tình trạng hôn nhân của đôi bên là không thể hàn gắn nên anh V yêu cầu ly hôn với chị L, còn chị L cũng đồng ý với yêu cầu ly hôn của anh V. Trong quá trình tố tụng anh V, chị L đều yêu cầu Tòa tiến hành giải quyết, xét xử vắng mặt anh V, chị L cho thấy đôi bên không có thiện chí hàn gắn tình cảm, duy trì hôn nhân cùng nhau. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng tình trạng hôn nhân của anh V, chị L đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu ly hôn của anh V là có căn cứ, phù hợp với quy định khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Xét việc chị L yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng 03 con chung tên Lý Huỳnh Quế H, sinh ngày 19/4/2005, Lý H1, sinh ngày 01/12/2007 và Lý Huỳnh Thiện T, sinh ngày 17/4/2016 cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi và tự nguyện không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con - Hội đồng xét xử thấy rằng: yêu cầu này của chị L phù hợp với ý kiến và yêu cầu của anh V về vấn đề con chung, phù hợp với nguyện vọng muốn sống cùng chị L của cháu Hoa và cháu Huỳnh, đảm bảo sự ổn định về cuộc sống cũng như việc phát triển của các con chung, đồng thời là phù hợp với quy định của pháp luật tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết nên Tòa không xem xét.

[5] Về nợ chung: Đôi bên xác định không có nợ chung nên Tòa không xem xét.

[6] Xét quan điểm đề nghị của vị Đại diện viện kiểm sát huyện Ba Tri là cùng quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: anh Lý Quang V phải nộp án phí hôn nhân gia theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận cho anh Lý Quang V ly hôn chị Huỳnh Trúc L.

2. Về Con chung: Chị Huỳnh Trúc L được tiếp tục nuôi con 03 chung tên Lý Huỳnh Quế H, sinh ngày 19/4/2005, Lý H1, sinh ngày 01/12/2007 và Lý Huỳnh Thiện T, sinh ngày 17/4/2016 cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Lý Quang V có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét.

4. Về án phí: Anh Lý Quang V phải nộp án phí hôn nhân gia đình là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000163 ngày 19/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiêu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày bản án được tống đạt theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 04/08/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:70/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về