Bản án 70/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BN ÁN 70/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 71/2019/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2019/HSST-QĐ ngày 17/10/2019 đối với bị cáo:

Trần Hoàng V (tên gọi khác: Không), sinh ngày 08/8/1985 Nơi đăng ký HKTT và nơi ở: Số nhà 31, ngõ 25, phố Đ, tổ 9, phường B, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Trần Văn V, sinh năm 1954 và bà Trần Hoàng L, sinh năm 1958. Vợ, con: Chưa có.

Nhân thân: Từ nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 12/12, sau đó ở nhà lao động tự do. Bản án số 190/2015/HSST ngày 05/11/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình tuyên xử Trần Hoàng V về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, hình phạt 02 năm 06 tháng tù, phạt tiền 5.000.000 đồng, tịch thu sung quỹ nhà nước 300.000 đồng. V đã chấp hành bản án số 190 ngày 05/11/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Quá trình chấp hành bản án, V được giảm thời hạn chấp hành 02 lần bằng 06 tháng 12 ngày, đến ngày 26/4/2017 chấp hành xong hình phạt tù (công văn số 300/C-NK ngày 20/6/2019 của Trại giam Ninh Khánh trả lời Công an tỉnh Thái Bình). Theo xác minh tại Chi cục thi hành án thành phố Thái Bình ngày 06/6/2019 thể hiện V đã thi hành xong đối với khoản tiền phạt, tiền tịch thu sung quỹ và án phí hình sự sơ thẩm theo Quyết định của Bản án trên vào ngày 22/12/2015.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/6/2019 đến ngày 07/6/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Thái Bình, trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985 (vắng mặt)

Trú tại: Tổ 15, phường B, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

1, Anh Phùng Văn T, sinh năm 1980 (vắng mặt)

Trú tại: Thôn T, xã P, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

2, Anh Nguyễn Tiến Vinh, sinh năm 1978 (vắng mặt)

Trú tại: Số nhà 56, Ngõ 159, Tổ 6, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

3, Anh Vũ Tiến K, sinh năm 1960 (vắng mặt)

Trú tại: Số nhà 16/2, Ngõ 5, Tổ 13, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trn Hoàng V là đối tượng sử dụng ma túy, loại ma túy thường sử dụng chủ yếu là Heroine và mới dùng ma túy đá (Methamphetamine). Do mâu thuẫn với mẹ đẻ nên chiều ngày 31/5/2019, V bỏ đi đến nhà nghỉ Đ thuộc địa phận phường H, thành phố T thuê trọ tại phòng số 301, khi đi V có mang theo ít túi nilon nhỏ, một bình sử dụng ma túy đá tự chế. Đến khoảng 17 giờ ngày 01/6/2019, V bắt xe taxi đến khu vực cầu C thuộc phường Q, thành phố T tìm gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1m60, nhưng không biết tên và địa chỉ cụ thể đang đứng ở lề đường để mua ma túy (V đã được nghe một số người bạn nghiện nói nên biết người đàn ông này). Đến nơi, V lại gần người đàn ông này và nói: “Bán cho tôi ba triệu tiền ma túy đá và ba triệu tiền Heroine”, người đàn ông đó đồng ý ngay. V lấy tiền đưa cho người đàn ông đó, người này cầm tiền rồi đi đâu đó khoảng 3 phút sau quay lại đưa cho V 01 túi nilon đựng ma túy đá và 1 túi nilon đựng Heroine. Nhận được ma túy, V cho vào túi quần rồi bắt xe đi về khách sạn Đ nơi V đã thuê. Về phòng trọ, V lấy số túi nilon mang theo ra để chia ma túy, số ma túy đá V chia thành 06 túi nhỏ, số Heroine V mới chia được 08 túi nhỏ, còn lại chưa chia vẫn để nguyên trong túi nilon.Khi đang chia ma túy, V nhớ ra việc đi tìm nhà thuê ở trọ và mở cửa hàng để sửa đồ điện tử ở khu vực cầu V thuộc xã Đ, nên V cho số Heroine chưa chia vào túi nilon rồi bỏ vào túi quần phía trước bên phải đang mặc; số ma túy loại Methamphetamine và Heroine đã chia thành từng gói nhỏ, V để ngay trên mặt giường ngủ của khách sạn. V khóa cửa phòng khách sạn lại, cầm chìa khóa theo người, đi xuống đường trước cửa khách sạn và bắt xe Taxi M biển kiểm soát 17A-058.95 doanh Nguyễn Văn H điều khiển để đi về phía khu vực cầu V. Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 01/6/2019, khi V đang ở trên xe Taxi di chuyển trên đoạn đường Quốc lộ 39B thuộc địa phận thôn T, xã Đ, huyện Đông Hưng thì bị Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Thái Bình yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Tại đây, trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương và những người làm chứng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành kiểm tra người V, phát hiện tại túi quần phải phía trước V đang mặc có 01 túi nilon trong suốt, có nắp cài viền màu đỏ bên trong có các chất bột màu trắng dạng cục, V khai nhận đó là Heroine. Cơ quan điều tra còn thu giữ tại túi quần trái, phía trước đang mặc của của V 300.000 đồng và 01 chiếc điện thoại IPhone vỏ màu đen, đã cũ. Công an tỉnh Thái Bình yêu cầu lái xe Taxi là anh Nguyễn Văn H tự kiểm tra xe ô tô biển kiểm soát 17A-058.95 và người trước sự chứng kiến của các cơ quan chức năng và những người được mời chứng kiến, nhưng không phát hiện và thu giữ gì.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã ra lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của V tại phòng 301 khách sạn Đ thuộc Tổ 21, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Bình phát hiện trên mặt giường có: 01 túi nilon trong suốt có viền màu đỏ, bên trong có 06 túi nilon trong suốt có kích thước khác nhau, đều chứa chất dạng tinh thể trong suốt, V khai là ma túy đá; 01 túi nilon trong suốt có viền màu đỏ, bên trong có 08 túi nilon trong suốt có kích thước khác nhau, đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, V khai là Heroine; 01 cân điện tử màu đen; 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế; số tiền 5.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ toàn bộ số ma túy trên và niêm phong trong 02 phong bì thư A1 và A2, có xác nhận của V và những người tham gia niêm phong để trưng cầu giám định. V khẳng định, toàn bộ số ma túy tàng trữ trong người V khi bị bắt quả tang và ma túy thu tại phòng trọ 301 của Khách sạn Đ, V tàng trữ nhằm mục đích để sử dụng.

Ti Bản kết luận giám định số 198/KLGĐ-PC09 ngày 02/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

Mẫu thu trên người của Trần Hoàng V gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 11,5886 gam; Mẫu A1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 1,6405 gam; Mẫu A2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 1,9619 gam”.

Ti phiên tòa bị cáo Trần Hoàng V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng số 74/KSĐT ngày 09/10/2019 đã truy tố, hành vi của bị cáo Trần Hoàng V đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về áp dụng pháp luật và hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự.

Đề nghị tuyên phạt bị cáo Trần Hoàng V từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù giam và áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo Trần Hoàng V từ 5.000.000đồng đến 7.000.000đồng.

* Ngoài ra còn đề nghị HĐXX giải quyết về vật chứng, án phí của vụ án.

Bị cáo Trần Hoàng V nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các quy định của pháp luật giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Ti phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01/6/2019; Kết luận giám định số 198/KLGĐ-PC54 ngày 02/6/2019; Lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn H; Lời khai của những người chứng kiến anh Phùng Văn T, anh Nguyễn Tiến V, anh Vũ Tiến K cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

[2.1] Do vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Hoàng V đã có hành vi xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện nên khoảng 18 giờ 15 ngày 01/6/2019, tại đường Quốc lộ 39 thuộc thôn T, xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình và thu giữ khi khám xét tại chỗ ở trọ bị cáo Trần Hoàng V đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy v ới tổng khối lượng 15,1910 gam (trong đó: 13,5505 gam Hêroin và 1,6405 gam Methamphetamine) với mục đích để sử dụng, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)..........……………………………….

2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội;

e) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cooca có khối lượng từ 500gam đến dưới 01kilôgam;

g) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

h) Lá cây cooca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

i) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

k) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

l) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100gam;

m) Các chất ma túy ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ e đến điểm m khoản này.

...........................................................................................................”.

[2.2] t tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ: Đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Ma tuý còn là nguồn gốc phát sinh các loại bệnh tật ảnh hưởng đến giống nòi và thuần phong mỹ tục của dân tộc, kéo theo sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Đặc biệt việc sử dụng ma túy tổng hợp gây ra sự hoảng sợ, lo lắng, ảo giác. Người nghiện sợ ánh sáng, ảo tưởng có người truy sát mình, do vậy không ra khỏi nhà, quên ăn uống là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác.

Khi xem xét, cân nhắc hình phạt cần xem xét đến tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ:

Bị cáo Trần Hoàng V không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Mẹ đẻ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng huy chương vì sự nghiệp giáo dục nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Trần Hoàng V như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng là phù hợp.

[2.3] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Bị cáo tàng trữ khối lượng ma túy nhiều, trước khi bị bắt bị cáo có việc làm và có thu nhập nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Hoàng V như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng là phù hợp.

[2.4] Trong vụ án này:

- Đối với nguồn gốc mua ma túy, bị can khai mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1m60, không biết tên và địa chỉ cụ thể. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý đối với người bán ma túy là phù hợp.

- Đối với anh Nguyễn Văn H là người điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 17A-058.95, khi chở V đi từ khu vực khách sạn Đ, phường H, thành phố Thái Bình theo yêu cầu của V đi về khu vực Cầu V, anh H không biết V tàng trữ trái phép chất ma túy trong người nên không có căn cứ xử lý đối với với anh H là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với Khách sạn Đ, người quản lý khách sạn Vũ Tiến K và V đều khẳng định khi V để ma túy tại khách sạn, quản lý và lễ tân của khách sạn đều không biết việc V mang ma túy đến khách sạn nên không có căn cứ xử lý đối với người quản lý khách sạn.

- Nguồn gốc số tiền 6.000.000 đồng V khai dùng để mua ma túy, V khai do lao động mà có.

[3] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 11,0071 gam ma túy thu trên người Trần Hoàng V toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 198/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

+ 1,5788 gam ma túy mẫu A1 gửi giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 198/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

+ 1,9267 gam ma túy mẫu A2 gửi giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 198/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình Các vật chứng trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 10/10/2019.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu đen (cũ) đã được kiểm tra các tệp dữ liệu trên điện thoại và số tiền 5.300.000 đồng thu của bị cáo Trần Hoàng V do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo Trần Hoàng V, đối với số tiền 5.300.000đồng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Đối với chiếc xe ô tô biển kiểm soát 17A-058.95 do anh Nguyễn Văn H điều khiển chở bị cáo V khi bị bắt quả tang về việc tàng trữ trái phép chất ma túy, kiểm tra xe và người không liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ vào các tài liệu đã thu thập, đủ cơ sở xác định chiếc xe ô tô trên thuộc quyền sở hữu của Công ty TNHH một thành viên M Thái Bình có địa chỉ tại Số 8, lô 2, Khu phố 1, đường T, phường T, thành phố Thái Bình. Anh H là lái xe của Công ty M theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 46 ngày 18/12/2018, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh trả lại chiếc xe ô tô trên cho anh H theo Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 19 ngày 05/6/2019 là đúng quy định của pháp luật cần được chấp nhận.

[4] Về án phí: Bị cáo Trần Hoàng V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Hoàng V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Hoàng V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Trần Hoàng V 07 (bẩy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 01/6/2019.

- Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung 7.000.000 đồng đối với bị cáo Trần Hoàng V.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 11,0071 gam ma túy thu trên người Trần Hoàng V toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 198/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

+ 1,5788 gam ma túy mẫu A1 gửi giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 198/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

+ 1,9267 gam ma túy mẫu A2 gửi giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 198/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình - Trả lại bị cáo Trần Hoàng V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu đen (cũ) và số tiền 5.300.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, đối với số tiền 5.300.000 đồng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

c vật chứng trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 10/10/2019.

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình đã trả lại chiếc xe ôtô biển kiểm soát 17A-058.95 cho anh Nguyễn Văn H theo Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 19 ngày 05/6/2019.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Trần Hoàng V phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Hoàng V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về