Bản án 70/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 70/2019/HS-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đào Thịnh V (tên gọi khác: Châu) – sinh năm: 1992, tại Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Ấp 3, xã PL1, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đào Nguyên M – 1952 và bà Nguyễn Thị Đ – 1961; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 28/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành án xong hình phạt tù ngày 13/3/2018; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 18/9/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm tù về tội Giết người, chấp hành xong ngày 30/8/2011; Ngày 23/12/2011, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai ra quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời gian 24 tháng, chấp hành xong ngày 08/8/2014; Bị tạm giam từ ngày 29/3/2019. (có mặt)

2. Nguyễn Thị Đ (tên gọi khác: Minh) – sinh năm: 1961, tại Tây Ninh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Ấp 3, xã PL1, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Hồ Thị H – 1938; Chồng: Đào Nguyên M – 1952; Có 05 con, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1994; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 29/3/2019. (có mặt)

- Người làm chứng:

+ Tống Phước G – 1987. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 1, xã PL1, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

+ Ừng Tắc K – 1998. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 5, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

+ Trần Quốc V1 – 1990. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 4, xã PL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Đ và Đào Thịnh V có quan hệ là mẹ con. V là người nghiện ma túy, thường xuyên xin tiền của Đ để mua ma túy sử dụng, vì thương con nên Đ thường xuyên đưa tiền cho V để mua ma túy. Vào khoảng tháng 01/2019, V xin Đ tiền mua ma túy về phân lẻ ra bán kiếm lời. Do không có tiền đáp ứng nhu cầu sử dụng ma túy hàng ngày của V nên Đ đã đồng ý và đưa tiền cho V. Sau khi được mẹ đưa tiền, V là người trực tiếp đi mua ma túy, dụng cụ về phân nhỏ cho vào các đoạn ống hút bằng nhựa và bán cho đối tượng nghiện.

V khai nhận: Từ tháng 01/2019 đến tháng 02/2019, V đã 06 lần mua ma túy của một người phụ nữ tên Tr khoảng 35 tuổi, ở huyện Xuân Lộc, đi xe Novo màu đen (không rõ tên tuổi, địa chỉ, không nhớ biển số xe), trong đó 03 lần mua mỗi lần 01 chỉ giá 4.000.000đ/chỉ; 03 lần mua 02 chỉ giá 8.000.000đ/02 chỉ. Sau khi mua được ma túy, V giấu ma túy trong túi quần rồi điều khiển xe về nhà ấp 3 xã PL1, huyện TP, rồi lấy số ma túy đã mua ra để lên mặt kính kích thước 17 x 18cm, dùng dao lam phân thành thành nhiều vụn nhỏ rồi cho vào đoạn ống hút được cắt ra từ ống hút nước dài khoảng 1cm, rồi hàn kín hai đầu lại. Cứ 01 chỉ V phân được 45 tép, để bán cho các con nghiện với giá 100.000đ/tép, số ma túy còn dư lại thì V cất giấu để sử dụng. Đến tháng 02/2019, V chuyển sang mua của một người đàn ông tên M, khoảng 35 tuổi, đi xe Sirus màu vàng (không biết tên tuổi, địa chỉ, không nhớ biển số xe), mua 06 lần, mỗi lần 01 chỉ giá 4.500.000đ. Phương thức mua bán giữa V và M là V điện vào số điện thoại 0797528266 của M hỏi mua ma túy thì M đồng ý và hẹn giao dịch tại quán cà phê thuộc xã PX, huyện Tân Phú. V điều khiển xe mô tô biển số 60H4 – 4020 (xe mô tô do Nguyễn Thị Đ đứng tên chủ sở hữu) đến điểm giao dịch lấy ma túy, gói ma túy được M gói vào kẹo sữa đưa cho V, V mang về nhà phân lẻ ra bán như với hình thức như trên.

Từ tháng 01/2019 đến ngày 29/3/2019, trên địa bàn huyện Tân Phú, V đã trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng gồm: Bán cho Tống Phước G khoảng 50 lần, mỗi lần từ 01 đến 02 tép với giá 100.000đ/tép; bán cho Ừng Tắc K 03 lần, mỗi lần 01 tép với giá 100.000đ/tép; bán cho Trần Quốc V1 05 lần, mỗi lần 01 tép với giá 100.000đ/tép.

Hình thức giao dịch mua bán ma túy giữa V với đối tượng nghiện ma túy là các đối tượng nghiện ma túy gọi vào số điện thoại 0329858534 của V để hỏi mua, V đồng ý và hẹn điểm giao dịch nhưng chủ yếu là ở nhà V ở ấp 3, xã PL1, hoặc ở các đường be thuộc các xã PTh, PL1, PL.

Vào khoảng tháng 02/2019, do thấy V bán ma túy không có lời mà thiếu nợ, nên Đ nói V đưa ma túy cho Đ, Đ mang xuống quầy bán cá của mình tại chợ PL1 bán cho các đối tượng nghiện. Từ đó, V đã nhiều lần đưa ma túy cho Đ mỗi lần từ 10 tép đến 15 tép để Định mang xuống chợ bán, bản thân V thì bán ở nhà. Từ tháng 02/2019 đến ngày 29/3/2019, Định đã nhiều lần trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng nghiện gồm: Bán cho Tống Phước G khoảng 50 lần, mỗi lần từ 01 đến 02 tép với giá 100.000đ/tép; bán cho Trần Quốc V1 04 lần, mỗi lần 1 tép với giá 100.000đ/tép.

Ngày 27/3/2019, V điện vào số điện thoại 0797528266 của M hỏi mua ma túy với giá 2.000.000đ thì M đồng ý và hẹn giao dịch tại trước Trung tâm y tế huyện Tân Phú, do V mệt nên nhờ Đ đi lấy giúp. Đ điều khiển xe mô tô biển số 60H4 – 4020 đến điểm hẹn gặp M để lấy ma túy. Sau khi lấy về Đ tự phân số ma túy trên ra thành 10 tép, số còn lại giao cho V sử dụng và tiếp tục phân lẻ bán cho các đối tượng nghiện.

Vào lúc 14 giờ ngày 29/3/2019, Đ có hành vi bán trái phép 02 tép ma túy cho Tống Phước G tại quầy cá của mình ở chợ PL1 thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tang vật thu giữ:

- 02 đoạn ống nhựa màu vàng và xanh bên trong có chứa chất nghi là ma túy được gói trong tờ vé số cuộn trong tờ tiền mệnh giá 1.000đ thu trên tay Giang;

- 01 đoạn ống nhựa màu vàng bên trong chứa chất nghi là ma túy gói trong một tờ vé số và 02 đoạn ống nhựa màu vàng bên trong chứa chất nghi là ma túy gói trong tờ vé số cuộn trong tờ tiền 1.000đ trong rổ đựng tiền;

- 02 đoạn ống nhựa màu vàng bên trong chứa chất nghi là ma túy gói trong tờ vé số trong túi áo Nguyễn Thị Đ;

- Số tiền 200.000đ, 01 điện thoại Nokia thu trong rổ đựng tiền của Nguyễn Thị Đ.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra lệnh giữ và bắt khẩn cấp đối với Đào Thịnh V, ra lệnh và tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của V đã thu giữ được:

- 01 mặt kính kích thước 17 x 18cm bên trên chứa chất màu trắng ghi là ma túy thu giữ trong tủ quần áo của V;

- 01 con dao lam thu giữ trong tủ quần áo của V;

- 01 gói giấy chứa 30 đoạn ống nhựa dài 1cm được hàn kín một đầu, 01 đầu hở thu giữ trên nên nhà trong phòng của V;

- 10 ống hút nước thu giữ trong tủ trong phòng khách;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia thu giữ trên đầu két sắt trong phòng V;

- 01 xe mô tô hiệu MINGXING biển số 60H4 – 4020 thu giữ trong phòng khách;

- 02 điện thoại di động hiệu Vega màu đen và Nokia màu đen được buộc dây thun lại với nhau có gián mảnh giấy ghi “Bụi 200.000”; 01 điện thoại hiệu Neoson màu đồng và 02 điện thoại Nokia màu đen buộc lại với nhau bằng dây thun có mảnh giấy ghi “Trương 400.000”; 01 điện thoại di động NOKIA màu đen có dán mảnh giấy ghi “Vui Tcong 600.000” ở mặt trước và “Vũ 200” ở mặt sau, thu giữ trong két sắt trong phòng của V; 01 điện thoại Iphone màu trắng, thu giữ phòng khách;

Tang vật thu giữ là 02 đoạn ống nhựa màu vàng và xanh bên trong có chứa chất nghi là ma túy được gói trong tờ vé số cuộn trong tờ tiền mệnh giá 1.000đ thu trên tay G cho vào phong bì ký hiệu M1; 01 đoạn ống nhựa màu vàng bên trong chứa chất nghi là ma túy gói trong một tờ vé số và 02 đoạn ống nhựa màu vàng bên trong chứa chất nghi là ma túy gói trong tờ vé số cuộn trong tờ tiền 1.000đ trong rổ đựng tiền được cho vào phong bì ký hiệu M3; 02 đoạn ống nhựa màu vàng bên trong chứa chất nghi là ma túy gói trong tờ vé số trong túi áo Đ cho vào phong bì ký hiệu M2; chất bột màu trắng thu giữ trên mặt kính trong tủ quần áo của V được cho vào phong bì ký hiệu M4. Các phong bì có ký hiệu bên trong chứa chất bột màu trắng được niêm phong và ra quyết định trưng cầu giám định theo đúng quy định pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định số 234/PC09-GĐMT ngày 10/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M1, M2, M3, M4 được niêm phong do công an huyện Tân Phú gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng M1 là 0,0689 gam loại Heroin; M2 là 0,0563 gam loại Heroin; M3 là 0,0964 gam loại Heroin và M4 là 0,1215 gam loại Heroin.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Đào Thịnh V và Nguyễn Thị Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng nội dung vụ án nêu trên.

Bản cáo trạng số 68/CT-VKSTP-ĐN ngày 11 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Đào Thịnh V và Nguyễn Thị Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ quyền công tố luận tội và tranh luận; phân tích dấu hiệu phạm tội; đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đặc điểm nhân thân của các bị cáo. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo, áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cho bị cáo V. Đề xuất mức án đối với các bị cáo, cụ thể:

- Đào Thịnh V từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù.

- Nguyễn Thị Đ từ 06 năm đến 07 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao bì niêm phong số 234 của Phòng kỹ thuật hình sự tỉnh Đồng Nai bên trong chứa ma túy đã qua giám định; 01 mặt kính kích thước 17 x18cm; 01 con dao lam; 01 gói giấy chứa 30 đoạn ống nhựa dài 1cm được hàn kín một đầu, 01 đầu hở; 10 ống hút nước.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại Nokia X1-01 màu cam; 01 điện thoại Nokia 225 màu đen; 01 xe mô tô hiệu MINGXING biển số 60H4 – 4020 và số tiền 200.000đ.

- Tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra – công an huyện Tân Phú quản lý để tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý sau đối với 02 điện thoại di động hiệu Vega màu đen và Nokia màu đen được buộc dây thun lại với nhau có dán mảnh giấy ghi “Bụi 200.000”; 01 điện thoại hiệu Neoson màu đồng và 02 điện thoại Nokia màu đen buộc lại với nhau bằng dây thun có mảnh giấy ghi “Trương 400.000”; 01 điện thoại di động NOKIA màu đen có dán mảnh giấy ghi “Vui Tcong 600.000” ở mặt trước và “Vũ 200” ở mặt sau, thu giữ trong két sắt trong phòng của V; 01 điện thoại Iphone màu trắng, thu giữ phòng khách;

Các bị cáo có lời nói sau cùng như sau: Các bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và ăn năn hối cải. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định:

Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2019 đến ngày 29/3/2019, tại xã PL1, huyện TP, tỉnh Đồng Nai, Đào Thịnh V cùng với Nguyễn Thị Đ đã nhiều lần bán ma túy cho nhiều người. Trong đó: Đào Thịnh V trực tiếp bán cho Tống Phước G 50 lần với số lượng 50 tép heroin với số tiền 5.000.000đ; bán cho Ừng Tắc K 03 lần với số lượng 03 tép heroin thu số tiền 300.000đ; bán cho Trần Quốc V1 05 lần với số lượng 05 tép heroin thu số tiền 500.000đ. Nguyễn Thị Đ trực tiếp bán cho Tống Phước G 50 lần, với số lượng 50 tép heroin, với số tiền 5.000.000đ; bán cho Trần Quốc V1 04 lần với số lượng 04 tép với số tiền 400.000đ.

Ngày 29/3/2019, khi Nguyễn Thị Đ đang bán 02 tép heroin có khối lượng 0,0689 gam cho Tống Phước G với số tiền 200.000đ thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Ngoài ra, có căn cứ kết luận: Số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ trong rổ đựng tiền của Nguyễn Thị Đ 0,0964gam; thu giữ trên người Nguyễn Thị Đ 0,0563gam heroin; thu trong tủ quần áo của Đào Thịnh V 0,1215gam heroin là ma túy của V và Đ tàng trữ để bán cho người khác.

Hành vi do các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động mua bán các chất ma túy. Các bị cáo thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý. Bản thân các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Do đó các bị cáo Đào Thịnh V và Nguyễn Thị Đ đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung hình phạt là “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên”, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Trong tình hình hiện nay, ma túy đang trở thành vấn nạn của xã hội. Tình trạng mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra rất phức tạp, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây tác hại rất lớn đến sức khỏe nòi giống, nhân cách con người, gây thiệt hại về kinh tế của gia đình cũng như xã hội. Ma túy là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của các nhóm tội phạm khác. Vì vậy cần xử lý các bị cáo theo pháp luật hình sự là cần thiết, cần tuyên cho các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội, nhằm giáo dục, răn đe các bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và đảm bảo công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo V đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên hành vi phạm tội lần này thực hiện đủ yếu tố cấu thành tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông Đào Nguyên M là cha đẻ bị cáo V và là chồng bị cáo Đ được tặng huy chương kháng chiến hạng nhất, bản thân bị cáo Đ thường xuyên đau ốm là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân: Bị cáo V có nhân thân xấu. Bị cáo Đ có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[6]. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó, Đào Thịnh V tham gia với vai trò là người khởi xướng và thực hành tích cực, Nguyễn Thị Đ tham gia vào vụ án với vai trò là người giúp sức về mặt vật chất cho Đào Thịnh V thực hiện hành vi phạm tội, vừa là người thực hành. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào mức độ tham gia vào việc phạm tội của các bị cáo để áp dụng mức hình phạt tương xứng.

[7]. Về hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[8]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bao bì niêm phong số 234/PC09-GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong chứa ma túy đã qua giám định; 01 mặt kính kích thước 17 x18cm; 01 con dao lam; 01 gói giấy chứa 30 đoạn ống nhựa dài 1cm được hàn kín một đầu, 01 đầu hở; 10 ống hút nước. Xét vật chứng trên là công cụ dùng vào việc phạm tội, vật cấm tàng trữ. Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại Nokia X1-01 màu cam; 01 điện thoại Nokia 225 màu đen; 01 xe mô tô hiệu MINGXING biển số 60H4-4020; 01 Giấy phép đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên chủ xe Nguyễn Thị Đ, biển số 60H4-4020 (bản chính) và số tiền 200.000đ. Xét vật chứng trên có liên quan đến việc phạm tội và tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội. Căn cứ vào quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 02 điện thoại di động hiệu Vega màu đen và Nokia màu đen được buộc dây thun lại với nhau có gián mảnh giấy ghi “Bụi 200.000”; 01 điện thoại hiệu Neoson màu đồng và 02 điện thoại Nokia màu đen buộc lại với nhau bằng dây thun có mảnh giấy ghi “Trương 400.000”; 01 điện thoại di động NOKIA màu đen có dán mảnh giấy ghi “Vui Tcong 600.000” ở mặt trước và “Vũ 200” ở mặt sau, thu giữ trong két sắt trong phòng của V; 01 điện thoại Iphone màu trắng, thu giữ phòng khách. Tại phiên tòa, đã làm rõ được các vật chứng tên do các con nghiện cầm cố cho V để mua ma túy. Xét vật chứng trên có liên quan đến việc phạm tội. Căn cứ vào quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Từ tháng 01/2019 đến ngày 29/3/2019, Đào Thịnh V bán tổng cộng 58 lần với số lượng 58 tép heroin với số tiền 5.800.000đ; Nguyễn Thị Đ bán tổng cộng 54 lần với số lượng 54 tép heroin với số tiền 5.400.000đ, sau khi bán ma túy về tất cả số tiền bị cáo Đ giao lại cho bị cáo V. Xét số tiền trên là tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội. Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần buộc bị cáo Đào Thịnh V nộp lại sung công quỹ Nhà nước.

[10]. Các vấn đề khác:

- Đối với đối tượng tên Tr và M là người bán ma túy cho Đào Thịnh V hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý, khi nào xác minh được nhân thân lai lịch sẽ xử lý sau.

- Nguyễn Thị Đ còn khai bán cho các đối tượng nghiện khác trên địa bàn cụ thể: Lê Quang T (tên gọi khác: Trượng Khùng) sinh năm 1981, ngụ ấp 3, xã PL 50 lần, mỗi lần 01 tép; bán cho Nguyễn Văn Đ1, sinh năm 1993, ngụ ấp 2, xã TL 03 lần, mỗi lần 02 tép; bán cho Vày Say C, sinh năm 1995, ngụ ấp 2, xã TL khoảng 30 lần, mỗi lần 02 tép; Trịnh Văn T1, sinh năm 2000, ngụ ấp 2, xã PT 30 lần, mỗi lần 01 tép; bán cho Nguyễn Trường V, sinh năm 1995, ngụ ấp 3, xã PL 02 lần, mỗi lần từ 01 tép đến 02 tép; bán cho Nguyễn Tấn Th, sinh năm 1995, ngụ ấp 2, xã PT 02 lần, mỗi lần từ 01 tép đến 02 tép và một thanh niên không biết tên (là bạn của V) khoảng 02 lần, mỗi lần từ 01 tép đến 02 tép. Giá mỗi tép 100.000đ. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng các đối tượng trên không có mặt tại địa phương, hiện chưa lấy được lời khai nên chưa có căn cứ xử lý. Khi nào điều tra, làm rõ xử lý sau.

- Trong quá trình điều tra, Tống Phước G còn khai nhận ngoài việc mua ma túy của Đào Thịnh V, Nguyễn Thị Đ, Giang còn mua ma túy của Đào Nguyên M (là cha của Đào Thịnh V và chồng của Nguyễn Thị Đ) nhưng ông M không thừa nhận nội dung lời khai của Tống Phước G, ngoài lời khai của Giang thì không có chứng cứ nào khác chứng minh việc Đào Nguyên M có mua bán ma túy nên không đủ căn cứ xử lý.

[11]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[12]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự cho các bị cáo; áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cho bị cáo V;

- Điểm a, b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Các bị cáo Đào Thịnh V và Nguyễn Thị Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

- Bị cáo Đào Thịnh V 09 (chín) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 29 tháng 03 năm 2019.

- Bị cáo Nguyễn Thị Đ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 29 tháng 03 năm 2019.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao bì niêm phong số 234/PC09-GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong chứa ma túy đã qua giám định; 01 mặt kính kích thước 17 x18cm; 01 con dao lam; 01 gói giấy chứa 30 đoạn ống nhựa dài 1cm được hàn kín một đầu, 01 đầu hở; 10 ống hút nước.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại Nokia X1-01 màu cam; 01 điện thoại Nokia 225 màu đen; 01 xe mô tô hiệu MINGXING biển số 60H4-4020; 01 Giấy phép đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên chủ xe Nguyễn Thị Đ, biển số 60H4-4020 (bản chính) và số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

(Các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2019, số tiền theo Biên lai thu tiền số 0003404 ngày 12/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai)

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 02 điện thoại di động hiệu Vega màu đen và Nokia màu đen được buộc dây thun lại với nhau có gián mảnh giấy ghi “Bụi 200.000”; 01 điện thoại hiệu Neoson màu đồng và 02 điện thoại Nokia màu đen buộc lại với nhau bằng dây thun có mảnh giấy ghi “Trương 400.000”; 01 điện thoại di động NOKIA màu đen có dán mảnh giấy ghi “Vui Tcong 600.000” ở mặt trước và “Vũ 200” ở mặt sau; 01 điện thoại Iphone màu trắng. (Các vật chứng hiện đang tạm giữ tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú theo biên bản khám xét ngày 29/3/2019).

- Buộc Đào Thịnh V nộp lại số tiền 11.200.000đ (Mười một triệu hai trăm nghìn đồng) tiền thu lợi bất chính để sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Các bị cáo Đào Thịnh V và Nguyễn Thị Đ, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về