TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 70/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trần Thị N-nđ, sinh năm 1988. Địa chỉ: ấp B B, xã TH, huyện An Minh, Kiên Giang. (có mặt)
Bị đơn: Anh Trần Hiếu Đ-bđ, sinh năm 1987. Địa chỉ: ấp B B, xã TH, huyện An Minh, Kiên Giang. (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 19-3-2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị N-nđ trình bày và yêu cầu như sau:
Chị N-nđ và anh Đ-bđ quen biết, tìm hiểu nhau được một thời gian rồi đi đến hôn nhân. Sau đó đăng ký kết hôn tại UBND phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang vào ngày 27-3-2010.
Vợ chồng sống chung đầm ấm một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn. Mâu thuẩn chủ yếu là do chồng tôi không lo làm ăn, lại hay cờ bạc gây nợ nần. Đến tháng 8 năm 2016 thì vợ chồng ly thân cho đến nay.
Về con chung: anh, chị có 02 con chung là Trần Thành Đ, sinh ngày 15/9/2010 và Trần Phúc L, sinh ngày 23/10/2014. Hiện nay cháu Đ đang ở bên anh Đ-bđ nhưng do má chồng trực tiếp nuôi dưỡng (hiện ở An Giang). Còn đứa nhỏ (L) do chị N-nđ trực tiếp nuôi dưỡng nhưng gần đây cũng gởi về ở với bà nội cho anh, em sống chung. Hiện nay chị N-nđ đang đi làm công nhân ở Bình Dương, thu nhập mỗi tháng trung bình là khoảng 7.000.000đ trên 1 tháng.
Về tài sản: không còn tài sản chung; nợ chung: không có Chị N-nđ khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Đ-bđ; về con chung, đồng ý giao cháu Đ cho anh Đ-bđ nuôi dưỡng (và cháu Đ cũng có nguyện vọng sống với cha); còn cháu L chị N-nđ xin được tiếp tục nuôi dưỡng, không yêu cầu anh Đ-bđ cấp dưỡng nuôi con cùng chị.
Về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Đ-bđ vắng mặt nên không có lời trình bày.
Tại biên bản xác minh ngày 16-10-2019, xác định được, nguyên nhân phát sinh mâu thuẩn giữa chị N-nđ với anh Đ-bđ là do anh, chị luôn bất đồng về quan điểm sống, hay cự cải; anh Đ-bđ làm ra tiền nhưng không lo lắng cho vợ, con, hay nhậu nhẹt.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật tố tụng dân sự; đối với các đương sự thì từ khi thụ lý vụ án đến nay phía nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; phía bị đơn vắng mặt nên đã không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định, việc xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định. Về quan điểm giải quyết vụ án: đề nghị HĐXX cho chị N-nđ ly hôn với anh Đ-bđ; về con chung ghi nhận ý kiến chị N-nđ; tài sản và nợ không yêu cầu nên không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Đ-bđ đều vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và phiên tòa. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng anh Đ-bđ vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên HĐXX căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Đ-bđ.
[2] Về quan hệ hôn nhân, chị N-nđ và anh Đ-bđ chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được UBND phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 27-3-2010 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Chị N-nđ và anh Đ-bđ sống chung một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân là do anh, chị có nhiều bất đồng về quan điểm, cách sống dẫn đến ly thân từ tháng 8 năm 2016. Trong thời gian ly thân tương đối dài anh, chị chưa có những thay đổi, biện pháp tốt để đoàn tụ. Đồng thời khi Tòa án thông báo về yêu cầu ly hôn của chị N-nđ thì anh Đ-bđ không có ý kiến hay động tác gì để hàn gắn mà bỏ mặc; khi Tòa án tổ chức hòa giải đoàn tụ thì anh Đ-bđ vắng mặt không tham dự. Việc anh Đ-bđ không có ý kiến khi nguyên đơn xin ly hôn, không tham dự phiên hòa giải, phiên tòa vừa vi phạm nghĩa vụ bị đơn vừa đánh mất cơ hội hòa giải đoàn tụ tại Tòa án. Từ đó cho thấy giữa anh Đ-bđ và chị N-nđ mục đích hôn nhân đã không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị N-nđ được ly hôn với anh Đ-bđ.
[4] Về con chung, anh chị có 02 người con chung là Trần Thành Đ, sinh ngày 15/9/2010 hiện đang sống bên anh Đ-bđ và Trần Phúc L, sinh ngày 23/10/2014 hiện đang sống bên chị N-nđ. Chị N-nđ đồng ý giao cháu Đ cho anh Đ-bđ nuôi dưỡng và cháu Đ cũng có nguyện vọng sống với cha; chị N-nđ xin nuôi cháu L. HĐXX thấy yêu cầu của chị N-nđ là phù hợp Điều 81 và 82 Luật Hôn nhân và gia đình nên chấp nhận, giao anh Đ-bđ trực tiếp nuôi cháu Đ, chị N-nđ trực tiếp nuôi cháu L. Anh Đ-bđ không phải cấp dưỡng nuôi con do chị N- nđ không yêu cầu.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: chị N-nđ không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[6] Về án phí, nguyên đơn chị N-nđ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000đ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 9, 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Trần Thị N-nđ, sinh năm 1988 và anh Trần Hiếu Đ-bđ, sinh năm 1987.
2. Về con chung: Giao cháu Trần Thành Đ, sinh ngày 15/9/2010 cho anh Đ-bđ trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Trần Phúc L, sinh ngày 23/10/2014 cho chị N-nđ trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Đ-bđ không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị N-nđ do chị N-nđ không yêu cầu.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.
4. Về án phí, chị N-nđ chịu án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0006406 ngày 24-6-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh. Chị N-nđ đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị N-nđ có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27-11-2019).
Anh Đ-bđ vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 70/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về