Bản án 70/2018/HSST ngày 20/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 70/2018/HSST NGÀY 20/04/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20/4/2018, tại Hội trường thôn Châu Cầu, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 61/2018/HSST, ngày 06/03/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2018/QĐXX-HSST ngày 05/4/2018 đối với bị cáo:

Dương n K, sinh năm 1995; Giới tính: Nam; HKTT: Thôn Nà G, xã Đồng Ý, huyện Bắc S, tỉnh Lạng S; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Bố đẻ: Dương Văn L (Đã chết); Mẹ đẻ: Hoàng Thị T, sinh năm 1972; Bị cáo là con một; Vợ: Lương Thị Phượng, sinh năm 1996; Con: 01 con sinh năm 2018;

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/11/2017 đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đức Đông, sinh năm 1990; Địa chỉ: Mao Yên, Phượng Mao, Quế Võ, Bắc Ninh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19h30 ngày 28/11/2017 K và Dương Hoàng Tiến cùng hai người bạn của K (K không nhớ tên) ngồi uống rượu ốc tại Giang Liễu, Phương Liễu, Quế Võ. Đến khi uống xong, K ra lấy xe thì có một người bạn (trong số 02 người ngồi uống rượu ốc với K) đến bảo K “Em cầm túi đá này mang ra cổng chùa Giang Liễu đưa cho một thằng cho anh”. Người đó đưa cho K 01 túi nilon. K cầm lấy và biết đó là túi ma túy đá. Người đó bảo K đưa điện thoại để nhập số điện thoại của người nhận hàng vào máy K và bảo “Bảo thằng kia mua cho anh 01 thẻ 100.000đ và 01 thẻ 200.000đ”. K đồng ý. K cầm gói ma túy ở tay rồi đi xe máy ra đèo Tiến đến khu vực cổng chùa Giang Liễu. Đến gần nơi K điện thoại cho người đó (sau này K biết người đó tên là Nguyễn Đức Đông) hỏi Đông ở đâu để đưa đồ cho. Đông bảo K đến cổng chùa. K gặp và đưa gói ma túy cho Đông và bảo Đông “ Nạp cho thằng kia một cái thẻ một trăm, một cái thẻ hai trăm”. Đông cầm ma túy rồi đưa cho K 300.000đ và bảo “hay mày nạp cho nó đi”. K cầm tiền đút vào túi quần thì bị công an phát hiện bắt giữ cùng tang vật;

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, K khai nhận số ma túy K đưa cho Đông là của bạn ngồi uống rượu nhờ K đưa cho Đông (bán cho Đông)

Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ đã thu giữ tại túi quần của Nguyễn Đức Đông  01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; Thu giữ của Dương Văn K 300.000 đồng;

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội cuả mình như cáo trạng đã nêu là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo đủ yêu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Tại kết luận giám định số 11/KLGĐMT-PC54 ngày 29/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất tinh thể màu trắng bên trong một túi nilon màu trắng gửi giám định có trọng lượng là 0,0816 gam là ma túy; Loại ma túy:Methamphetamine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì đối với kết luận giám định.

Bản cáo trạng số 26/CTr-VKSQV ngày 05/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau; Phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang và toàn bộ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội cuả bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo  Dương Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 5 điều 194; Điều 33; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999; xử phạt  Dương Văn K từ 24 đến 30 tháng tù; Phạt bị cáo từ 5.000.000đ đến 7.000.000đ sung quỹ nhà nước.

Đề nghị áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy tang vật là số ma túy còn lại sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ và chiếc điện thoại.

Bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt;

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận  tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung vụ án đã thể hiện rõ: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 28/11/2017, tại khu vực cổng chùa thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh,  Dương Văn K đang có hành vi bán trái phép 0,0816 gam ma túy, chất Methamphetamine với giá 300.000 đồng cho Nguyễn Đức Đông thì bị công an phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn ở trên là hoàn toàn phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma túy làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội cuả Nhà nước, việc đấu tranh đối với các tội phạm về ma túy hiện nay là nhiệm vụ cuả toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Bất chấp sự ngăn cấm cuả pháp luật, bị cáo đã có hành vi bán ma túy cho người khác với mục đích kiếm lời nên đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi cuả bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma túy trên địa bàn dân cư, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của nhiều loại tôi phạm khác. Vì vây, cần xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân;

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cuả bị cáo thì thấy;

Tình tiết tăng nặng: Không có;

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm p khoản 1, điều 46 BLHS năm 1999.

Từ những phân tích trên xét cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ giáo dục đối với bị cáo;

Về hình phạt bổ sung: Xét cần phạt bị cáo một khoản tiền sung  quỹ nhà nước.

Đối với Nguyễn Đức Đông là người đã mua ma túy của K. Do lượng ma túy Đông mua chưa đủ lượng để khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã xử lý hành chính đối với Đông là phù hợp.

Đối với Dương Hoàng Tiến là người đi cùng K khi K bán ma túy, Tiến không biết việc K bán ma túy cho Đông. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ không xử lý đối với Tiến là phù hợp.

 

Đối với người thanh niên đã đưa ma túy cho K, K không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

Về vật chứng: Áp dụng điều 106 BLTTHS năm 2015; Điều 41 BLHS năm 1999 tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định;

Số tiền 300.000đ thu giữ của bị cáo là tiền có được từ việc bán ma túy; chiếc điện thoại dùng để liên lạc trong việc bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Chiếc xe máy K sử dụng đi giao ma túy cho Đông là xe của chị Lương Thị Phượng. Chị Phượng giao xe cho K mượn không biết việc K dùng xe đi bán ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị Phượng là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định cuả pháp luật; Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo  Dương Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1, 5 Điều 194; Điều 33; Điều 41; Điểm p, khoản 1, Điều 46 Bộ luật hình sự 1999; Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTV Quốc Hội;

Xử phạt: Dương Văn K 27 (Hai bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ  ngày 28/11/2017;

Phạt bị cáo 5.000.000đ sung quỹ nhà nước.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Tịch thu tiêu hủy tang vật còn lại sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ và chiếc điện thoại Nokia. Tất cả các tang vật hiện có theo biên bản bàn giao tang vật ngày 06/3/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận kết quả bản án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2018/HSST ngày 20/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về