Bản án 70/2017/HNGĐ-ST ngày 19/12/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 70/2017/HNGĐ-ST NGÀY 19/12/2017 VỀ TRANH CHÁP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lýsố 381/2017/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2017 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 13/11/2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Tô Thị Kiều O, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 3, ấp T, xã T,thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ 2, khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tai đơn khởi kiên ngay 25 thang 8 năm 2017 và trong quá trinh giai quyêt vu án, nguyên đơn bà Tô Thị Kiều O trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Tô Thị Kiều O và ông Nguyễn Minh T có thời gian tìm hiểu nhau được khoảng 07 tháng thì tiến tới hôn nhân. Hai bên gia đình có tổ chức đám cưới theo phong tục vào năm 2006 nhưng đến năm 2007 thì mới đi đăng ký kết hôn và đã được Uỷ ban nhân dân xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 04/2011, Quyển số 01, ngày 04/4/2007. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2008 vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuân do tinh tinh không hơp, bất đồng quan điểm sống. Ngoai ra, ông T không lo làm ăn, ham mê cờ bạc, không quan tâm chăm lo cho gia đình, con cái va còn quan hệ tinh cam không trong sang với người phụ nữ khác nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2009 cho đến nay. Nhân thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà Tô Thị Kiều O yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

+ Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Minh T, sinh ngày10/4/2007. Khi ly hôn bà Tô Thị Kiều O yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Minh T và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về tài sản chung và vay nợ chung: Bà O tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bà Tô Thị Kiều O vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nhưnêu trên.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông Nguyễn Minh T không đến Toa án tham gia tố tụng và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khơi kiên cua nguyên đơn.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T tham gia phiên toa phát biểu quan điểm như sau:

- Về thu tuc tố tung: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Xet thấy mâu thuân vơ chồng đa trầm trong, muc đich hôn nhân không đat được. Đề nghị Hội đồng xet xư chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị Kiều O, cụ thể như sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhân cho bà Tô Thị Kiều O được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

+ Về con chung: Do bà Tô Thị Kiều O hiện đang nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Minh T và nguyện vọng của con là được ở với mẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Tô Thị Kiều O được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

+ Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

+ Vấn đề tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình mà bị đơn cư trú tại thị xã T và nguyên đơn đề nghị TAND thị xã T giải quyết. Căn cứ vào Điều 28, 35 va 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa ánnhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn ông Nguyễn Minh Tâm đều vắng mặt không co ly do. Căn cứ Khoản 2 Điều 227 va Khoan 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Minh Tâm.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Tô Thị Kiều O và ông Nguyễn Minh T là những người đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 04/2011, Quyển số 01, ngày 04/4/2007 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống  vơ chồngthường xuyên xay ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo nguyên đơn trinh bay la ông T không lo làm ăn mà chỉ ham mê cờ bạc, không quan tâm, chăm sóc gia đình, con cái và còn có mối quan hệ với người phụ nữ khác. Tháng 06/2015, bà O đã gửi đơn yêu cầu Toa an giải quyết cho ly hôn với ông T. Được sự vận động của Tòa án, bà O đã rút đơn nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, vợ chồng vẫn không thê hòa hợp, không về chung sống vơi nhau, hiện tại vợ chồng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Bị đơn ông Nguyễn Minh T đã đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án tham gia tố tụng, không có văn bản trình bày ý kiến đối vơi yêu cầu cua nguyên đơn là thể hiện thái độ coi thường pháp luật và không mong muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình. Hiện nay bà O và ông T đã sống ly thân. Theo quy định tại Điều 17 và 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Đối chiếu với quy định nêu trên thì việc chung sống giữa bà Tô Thị Kiều O và ông Nguyễn Minh T không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn có căn cứ, phù hợp quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Minh T, sinh ngày 10/4/2007. Khi ly hôn, bà Tô Thị Kiều O yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Minh T và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu Nguyễn Minh T có nguyện vọng xin được sống vơi ba O. Xét thấy ý kiến của nguyên đơn phù hợp với nguyên vong cua con chung đu 07 tuôi trơ lên, phu hơp vơi các Điều 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung tên Nguyễn Minh T cho bà Tô Thị Kiều O được trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.3] Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nênHội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí: Căn cứ vào Điểm a Khoản 5 Điều 27  Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn bà Tô Thị Kiều O phải nộp an phi hôn nhân va gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cư vao Điều 28, 35, 39, 92 va 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cư vao Điều 17, 19, 56, 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

- Căn cư vào Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệphí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị Kiều O về việc: Ly hôn va tranh chấp nuôi con với bị đơn ông Nguyễn Minh T.

2. Bà Tô Thị Kiều O được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

3. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Minh T, sinh ngày 10/4/2007 cho bà Tô Thị Kiều O được trực tiếp nuôi dưỡng.

4. Về viêc cấp dương nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Bà Tô Thị Kiều O và ông Nguyễn Minh T đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

5. Về tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

6. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Tô Thị Kiều O phải nộp số tiền 300.000 đồng, khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013261 ngày 13/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, bà Tô Thị Kiều O không phải nộp thêm.

7. Về quyền kháng cáo:

7.1. Bà Tô Thị Kiều O có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

7.2. Ông Nguyễn Minh T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án đươc tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2017/HNGĐ-ST ngày 19/12/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:70/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về