Bản án 69/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 69/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn H, sinh năm 1994 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ KT 2, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C và bà Đinh Thị T; có vợ là Ngô Thị Hồng N và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 18/01/2021; tạm giam ngày 22/01/2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 18/01/2021, tổ công tác Công an phường Đông Hải đang làm nhiệm vụ trên địa bàn phát hiện tại khu vực đầu ngõ số 02 Chợ Hàng, phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng Phạm Văn H đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 16H3 - 2237 có biểu hiện cất giữ trái phép chất ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Ngay lúc đó, H đã thả từ trong lòng bàn tay trái xuống dưới đất gần chân trái của H 01 túi nilon màu đỏ. Tiến hành kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong 01 túi nilon màu đỏ nói trên chứa 01 gói giấy chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 xe máy biển kiểm soát 16H3 - 2237. Tổ công tác đã đưa H về trụ sở Công an phường Đông Hải và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra H khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 18/01/2021, H điều khiển xe máy biển kiểm soát 16H3 - 2237 đến khu vực chắn tàu đường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực chắn tàu, H gặp 01 nam giới (không biết địa chỉ, lai lịch) đang dừng xe máy ở vỉa hè hỏi H “có chơi hàng không”. H hiểu ý người nam giới là có muốn mua ma túy không. H đồng ý và đưa cho nam giới này 200.000 đồng, người này nhận tiền rồi bảo H điều khiển xe máy đi theo anh ta đến ngõ số 02 Chợ Hàng, phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng. Khi đi vào ngõ được khoảng 30 mét, nam giới bảo H đứng chờ rồi đi sâu vào trong ngõ (H không biết người này đi đâu). Khoảng 03 phút sau nam giới quay lại đưa cho H 01 túi nilon màu đỏ, H nhận túi nilon và biết bên trong có ma túy nên cầm túi nilon trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đi về. Khi đi ra đến khu vực đầu ngõ số 02 Chợ Hàng, phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng H bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 138/KQGĐ ngày 21/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hải Phòng kết luận: “Chất bột màu trắng trong gói giấy trong 01 túi nilon màu đỏ thu giữ của Phạm Văn H là ma túy, có khối lượng 0,14 gam, loại Heroine”.

Tại Bản cáo trạng số 60/CT-VKS ngày 27/4/2021của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Văn H mức án từ 15 đến 18 tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và lượng ma túy còn lại sau giám định (số 138/MT/PC09) thu giữ của bị cáo.

Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; báo cáo bắt giữ; Kết luận giám định số 138/KQGĐ ngày 21/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hải Phòng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; lời khai đó thể hiện: Ngày 18/01/2021, Phạm Văn H có hành vi cất giữ trái phép 0,14 gam heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân và bị bắt quả tang tại khu vực đầu ngõ số 02 Chợ Hàng, phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng.

[3] Như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Phạm Văn H theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý chất gây nghiện và là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án nên phải xử lý nghiêm.

- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (đã được niêm phong trong bì thư niêm phong số 138/MT/PC09) xét là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[9] Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 16H3 – 2237 thu giữ của bị cáo, H khai mua của 01 nam giới ở khu vực Kiến An, Hải Phòng (hiện không nhớ rõ địa chỉ) cách ngày bị bắt khoảng 08 tháng. Khi mua xe có đủ giấy tờ nhưng H đã làm mất. Tiến hành xác minh tên chủ sở hữu xe là Nguyễn Thị Hồng Nhung, địa chỉ số 6/12 Võ Thị Sáu, phường Máy Tơ, Ngô Quyền, Hải Phòng. Chính quyền địa phương cung cấp tại địa chỉ trên hiện không có ai là Nguyễn Thị Hồng Nhung. Do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục lưu giữ chiếc xe trên để điều tra xác minh, xử lý sau.

[10] Đối với người nam giới bán ma túy cho H, quá trình điều tra không xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở điều tra.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Văn H 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 18 tháng 01 năm 2021.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (đã được niêm phòng trong bì thư niêm phong số 138/MT/PC09);

(Theo Biên bản giao, nhận tài sản, vật chứng ngày 28/4/2021 giữa Cơ quan Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Văn H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

- Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 69/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về