Bản án 69/2021/HS-ST ngày 08/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LK, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 69/2021/HS-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LK, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2021/HSST ngày 14/5/2021; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/HSST- QĐ ngày 09 tháng 5 năm 2021 và thông báo dời phiên tòa số 03/TB-TA ngày 24/6/2021 đối với các bị cáo:

1- Nguyễn Hoài P, sinh năm 1991; nơi sinh: Thừa thiên Huế; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 11, KV 4, phường An Hòa, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi ở: Tổ 5, ấp BT, xã BT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: nghề tự do; trình độ học vấn: 9/12. dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa, quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thanh Thể (đã chết) và bà Thái Thị Đoan Trang, sinh năm: 1968 (còn sống); vợ con: không.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 26/01/2018 bị Tòa án nhân dân thị xã LK (nay là thành phố LK) áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc thời hạn 14 tháng chấp hành xong ngày 02/11/2018.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 15/01/2021 đến ngày 21/01/2021 bị áp dụng biện pháp tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố LK.

2- Phạm Trúc Q, sinh năm 1989; nơi sinh: Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 37/3A Bến Bình Trị Đông, phường 11, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ở: Tổ 4, ấp BT, xã BT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: nghề tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: phật, quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huỳnh Kim Út, sinh năm 1960 (còn sống) và bà Đồng Thị Kim Hồng, sinh năm: 1968 (còn sống); chồng: Hồ Tuấn Khang, sinh năm 1988; có 02 người con: lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2013.

Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 15/01/2021 đến ngày 21/01/2021 bị áp dụng biện pháp tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố LK.

(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chừng:

1. Bà Đồng Thị Kim Hồng, sinh năm 1968.

Nơi cư trú: Ấp BT, xã BT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

2. Ông Trần Thanh Minh, sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Khu phố 1, phường Xuân An, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 14/01/2021, Nguyễn Hoài P liên lạc với một người tên Phó (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 4.200.000 đồng ma túy đá để sử dụng. Phó đồng ý và hẹn P đến cầu Bốn Thước, thuộc khu phố Ruộng Lớn, phường Bảo Vinh, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai để giao ma túy. Sau đó, P thuê xe taxi đi đến cầu Bốn Thước thì gặp 01 thanh niên tên Tồ (không rõ nhân thân, lai lịch) ra đưa ma túy cho P và nhận 4.200.000 đồng. P đem toàn bộ số ma túy trên về nhà tại tổ 5, ấp BT, xã BT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai cất trên bàn trong phòng ngủ của P. Do bị cáo P và Q có quan hệ tình cảm và nhiều lần cùng sử dụng ma túy với nhau nên khoảng 22 giờ cùng ngày Q đến nhà P, lúc này P đang đứng trước sân nhà nên Q vào phòng ngủ của P và thấy 01 bịch ma túy để trên bàn biết là của P, Q lấy một ít ma túy rồi mang về nhà tại tổ 4, ấp BT, xã BT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai cất giấu trong tủ quần áo để sử dụng. Đến khoảng 11 giờ ngày 15/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố LK cùng Công an xã BT tiến hành kiểm tra hành chính nhà của Q thì phát hiện trong tủ quần áo của Q có 01 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy và 01 bịch nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng (theo Q khai là ma túy) nên đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và niêm P theo đúng quy định pháp luật.

Qua làm việc Q khai, số ma túy trên Q lấy tại nhà của P nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố LK tiến hành khám xét khẩn cấp nhà của P. Khi thấy lực lượng Công an thì P cầm bịch ma túy chạy ra phía sau nhà ném qua bên hông nhà thì bị phát hiện thu giữ tang vật và niêm P theo đúng quy định pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 135/KLGĐ-PC09 ngày 19/01/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M1) có chữ ký của Phạm Trúc Q được niêm P gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,13534 gam, loại Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) có chứ ký của Nguyễn Hoài P được niêm P gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 8,55449 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 bịch nylon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 bình nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma tuý thu giữ trong tủ cá nhân của bị cáo Q.

+ 01 bịch nylon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng thu giữ dưới đất bên hông nhà ở của Nguyễn Hoài P.

Tại bản cáo trạng số: 51/CT-VKS.LK ngày 12/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố LK đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoài P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); truy tố bị cáo Phạm Trúc Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giãm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Về hình phạt đề nghị xử phạt: Bị cáo P từ 05 năm đến 06 năm tù; Bị cáo Q từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 mẫu vật còn lại sau giám định được niêm P số: 135/KLGĐ-PC09 ngày 13/01/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai. 01 bình nỏ thủy tinh.

- Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố là đúng không oan sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố LK, Điều tra viện; Viện kiểm sát nhân dân thành phố LK, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Đối với những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, Tuy nhiên, những người này đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc văng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành theo tủ tục chung.

[2]. Về tội danh và hình phạt:

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 15 tháng 01 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố LK bắt quả tang bị cáo Phạm Trúc Q đang tàng trữ trái phép ma túy 0,13534 gam, loại Methamphetamine để mục đích sử dụng. Nguyễn Hoài P đang tàng trữ trái phép ma túy 8,55449 gam, loại Methamphetamine để mục đích sử dụng. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

.....

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm:

g) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam…”.

Bị cáo Nguyễn Hoài P đã có hành vi tàng trữ 8,55449 gam, loại Methamphetamine mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo Phạm Trúc Q đã có hành vi tàng trữ 0,13534 gam, loại Methamphetamine mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát thành phố LK truy tố là có căn cứ.

[3]. Xét về hành vi phạm tội:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước mà còn là tác nhân gây ra nghiện ngập và các loại tội phạm khác; làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, khả năng lao động của người sử dụng, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, Nhà nước cấm tàng trữ trái phép chất ma túy dưới mọi hình thức. Các bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì nghiện ma túy, để thỏa mãn nhu cầu của bản thân các bị cáo bất chấp pháp luật cất giữ ma túy nhằm mục đích sử dụng nên cần phải đưa ra xét xử và áp dụng hình phạt tù để bị cáo có thời gian cai nghiện, cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung là cần thiết.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã xem xét các bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4]. Vxử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 mẫu vật còn lại sau giám định được niêm P số: 135/KLGĐ-PC09 ngày 13/01/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai. 01 bình nỏ thủy tinh, hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố LK, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/5/2021.

[5]. Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hoài P, Phạm Trúc Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Về tội danh và hình phạt.

- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 293 – Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoài P 06(sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2021.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Phạm Trúc Q 01(một) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2021.

2/ Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 mẫu vật còn lại sau giám định được niêm P số: 135/KLGĐ-PC09 ngày 13/01/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai. 01 bình nỏ thủy tinh, hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố LK, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/5/2021.

3/ Về án phí:

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Buộc các bị cáo mỗi người phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2021/HS-ST ngày 08/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về