Bản án 69/2020/HSST ngày 27/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 69/2020/HSST NGÀY 27/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2020/TLST – HS ngày 16 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐ - TA ngày 23 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn D; Sinh năm 1986 tại Hòa Bình; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký HKTT và ở: Xóm A, xã B, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Thợ xây tự do; Văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Họ tên cha: Bùi R, sinh năm 1955; Họ tên mẹ: Bùi E, sinh năm 1953; Họ tên vợ: Bùi T, sinh năm 1991; Con: có hai con (Con lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt quả tang, tạm giữ và giam từ ngày 27/11/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 27/11/2019, bị cáo Bùi Văn D nhờ anh Hoàng B (sinh năm: 1985, ĐKHKTT: Thôn B, xã Q, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 28B1-25790 chở bị cáo đi chơi. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi qua Nghĩa trang Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội, bị cáo vay anh B 300.000 đồng và bảo anh B dừng xe đứng chờ còn bị cáo đi đến cổng nghĩa trang, gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) mua 300.000 đồng được một gói nilon màu trắng bên trong có 06 gói giấy bạc chứa Heroine để sử dụng. Bị cáo cất ma túy vào túi quần trước bên trái, bảo anh B chở về Đan Phượng. Khi đi đến trước cửa nhà số 64, đường Cầu Diễn, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Tổ công tác Y17- KH141- Công an thành phố Hà Nội đã dừng xe của anh B để kiểm tra, phát hiện ma túy trong túi quần của bị cáo.

Vật chứng: Thu giữ của bị cáo 01 gói nilong màu bên trong có chứa 06 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại Samsung J7 màu đen số sim 0338886763; Thu giữ của anh B 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Future màu trắng đen BKS: 28B1- 257.90, số khung RLHJC7630KY005144, số máy JC76E-1007599; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen lắp sim 0374765598.

Tại Kết luận giám định số 4367/KLGĐ-PC09 ngày 06/12/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định: Chất bột màu trắng bên trong 06 gói giấy bạc đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,518 gam.

Xét nghiệm ma túy trong nước tiểu của bị cáo D cho kết quả dương tính, có sử dụng ma túy, của anh Bắc cho kết quả âm tính, không sử dụng ma túy.

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO thu giữ của anh Bắc là tài sản cá nhân của Bắc không liên quan đến tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho anh B. Chiếc xe mô tô Honda Future màu trắng đen BKS: 28B1-257.90 thu giữ của anh B, đăng ký chủ sở hữu là chị Bùi Thị N là vợ anh B, xe không có trong dữ liệu vật chứng. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho chị N.

Tại Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 09/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố bị cáo Bùi Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn D mức án từ 20 đến 24 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, trả lại cho bị cáo một điện thoại Samsung J7 màu đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Hồi 14 giờ 00 phút ngày 27/11/2019, tại trước cửa số nhà 64, đường Cầu Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, bị cáo Bùi Văn D có hành vi tàng trữ trái phép 0,518 gam Heroine thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với bị cáo được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo biết ma túy là chất gây nghiện, làm tổn hại sức khỏe con người đặc biệt là sức khỏe tâm thần của người sử dụng, là mầm mống gây ra nhiều loại tội phạm khác, bị Nhà nước đã cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ… trái phép nhưng bị cáo vẫn mua, tàng trữ để sử dụng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử, là người dân tộc thiểu số, gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc hộ cận nghèo từ địa phương có kinh tế đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 của Chính phủ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt chính: Cần áp dụng hình phạt tù nghiêm, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo là chất gây nghiện, bị nhà nước cấm lưu hành không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc điện thoại Samsung J7 màu đen thu giữ của bị cáo, là tài sản của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, cần trả lại cho bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cơ quan kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, khởi tố, kết luận điều tra, truy tố theo đúng tội danh, khung hình phạt.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Điều luật áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí

3. Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Bùi Văn D 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2019.

4. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định bên ngoài có chữ ký của bị cáo và giám định viên; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Samsung J7 màu đen cũ đã qua sử dụng, gắn sim số 0338886763 (Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/3/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm).

5. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/HSST ngày 27/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về