Bản án 69/2020/HSST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản  

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 69/2020/HSST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2020/HSST, ngày 23 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2020/HSST-QĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Thị H (tên gọi khác: H2); Sinh ngày 29/9/1998; Nơi sinh: xã T, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Nơi thường trú: xóm v xã T, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá: 01/12; Con ông Cao Hữu B, sinh năm 1971 và con bà Trương Thị N (đã chết); Chồng, con: chưa có; Tiền sự: không;

Tiền án: 03 tiền án.

Ngày 31/7/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 91/2017/HSST;

Ngày 12/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với bản án số 91/2017/HSST;

buc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 21 tháng tù, theo quyết định bản án số 106/2017/HSST;

Ngày 17/7/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định của bản án số 69/2019/HSST;

Nhân thân: Ngày 20/02/2017 bị Ủy ban nhân dân xã T áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/3/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người bị hại: Nguyễn Anh T, sinh năm 1997 (vắng mặt) Trú tại: xóm P, xã ĐT, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

- Người làm chứng: anh Nguyễn Nhuận H, sinh năm 1996 (vắng mặt) Trú tại: thôn s, xã K, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ, ngày 18/01/2020 Cao Thị H đi đến Văn phòng nhà xe Kim Thành Chính (khối h, thị trấn D, huyện Diễn Châu) do anh Nguyễn Anh T (sinh năm 1997, cư trú: xóm P, xã ĐT, huyện Yên Thành) làm chủ để chờ xe khách đi Hà Nội. Quá trình ngồi chờ xe, H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 19h30’ cùng ngày, lợi dụng lúc không có người để ý, H đi lên phòng ngủ của vợ chồng anh T (tầng 2-văn phòng) thì phát hiện có 01 chiếc ví da màu đen, H mở ví thấy tiền (1.335.000đ) và lấy toàn bộ số tiền bỏ vào trong ví của mình, sau đó tiếp tục tìm kiếm trong phòng thì bị anh Nguyễn Nhuận H (nhân viên văn phòng) phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: số tiền 1.335.000 đồng mà bị cáo chiếm đoạt đã trả lại cho người bị hại.

Bị cáo Cao Thị H đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu truy tố.

Luận tội tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã đánh giá tính chất, hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cao Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cao Thị H từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

Bị cáo thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung:

2.1. Tại phiên toà bị cáo Cao Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ, phù hợp với lời khai của người bị hại, như vậy đã đủ căn cứ để khẳng định: khoảng 19 giờ 30 phút ngày 18/01/2020, tại khu vực tầng 2, văn phòng nhà xe Kim Thành Chính (địa chỉ: khối n, thị trấn D), bị cáo Cao Thị H đã lợi dụng sơ hở của chủ nhà lén lút lục soát phòng ngủ của anh Nguyễn Anh T trộm cắp số tiền 1.335.000 đồng (một triệu ba trăm ba mươi lăm nghìn đồng). Bản thân bị cáo có 3 tiền án về tội “trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, bởi vậy với hành vi trên Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn chính xác, đúng pháp luật.

2.2.Về đánh giá tính chất hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Hành vi phạm tội của bị cáo Hà thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, phạm tội với lỗi cố ý và có chủ đích từ trước. Bị cáo có nhân thân cực xấu, nhiều lần bị xét xử về hành vi “trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong bản án trong thời gian không lâu lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ thể hiện sự liều lĩnh, ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần phải đưa ra một mức án nghiêm tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo và nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng: không;

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo H thành khẩn khai báo, lần xét xử này bị cáo thật sự ăn năn hối cải. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ tương ứng của Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét khi quyết định hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

2.3. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng và nguồn thu nhập chính để đảm bảo thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2.4. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Bị cáo Cao Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời gian quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm b khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cao Thị H 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (27/3/2020).

- Án phí: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Cao Thị H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/HSST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản  

Số hiệu:69/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về