Bản án 69/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 69/2020/HS-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 76/2020/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

NGUYỄN ANH Q (Kít), sinh ngày 09/3/1996 tại Đà Nẵng; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: K89/5 đường P, phường V, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Con bà Nguyễn Thị S (không xác định được cha); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

Ngày 12.4.2013 bị Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính, mức phạt 750.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 12/6/2014 bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 10/11/2016 bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

* Người bị hại:

1/ Anh Đặng Quốc T, sinh năm 1994; Trú tại: 245 (Lô A12) đường X, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2/ Chị Lưu Thị L, sinh năm 1984; Trú tại: 30 đường L, phường H, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

3/ Doanh nghiệp tư nhân A; Trụ sở: thôn P, xã Đ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Hồ Thị L, sinh năm 1971; Trú tại: 95 đường H, phường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2/ Ông Trương Quang H, sinh năm 1970; Trú tại: 95 đường H, phường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

3/ Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1969; Trú tại: K89/5 đường P, phường V, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong hai ngày 21/3/2020 và ngày 03/4/2020 trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Anh Q đã thực hiện các vụ trộm cắp như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 21/3/2020, Nguyễn Anh Q đến trước quán L 2 tại lô A12 đường X, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thấy anh Đặng Quốc T đang nằm ngủ trên ghế sofa có để 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi S2 đang sạc pin, Quốc lẻn vào quán trộm điện thoại rồi về thay màn hình mới để sử dụng.

Theo kết luật định giá tài sản số 87/KL-HĐĐG ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận Hải Châu kết luận trị giá chiếc điện thoại là 1.043.000đ.

Vụ thứ hai: Khoảng 03 giờ cùng ngày, sau khi trộm cắp tài sản của anh T, Q đi bộ đến tòa nhà QNT tại 244C đường N, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thấy quán cà phê M do chị Lưu Thị L làm chủ sở hữu ở tầng 1 không có người trông coi nên đột nhập vào bên trong mở ngăn kéo quầy thu ngân trộm cắp 2.600.000đ để tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ ba: Khoảng 21 giờ ngày 03/4/2020, Quốc đi bộ đến căn tin Bệnh viện Quân y 17 tại địa chỉ 02B Nguyễn Hữu Thọ, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng do Doanh nghiệp tư nhân A là đơn vị thuê của Bệnh viện để kinh doanh buôn bán. Q đột nhập vào tầng 1 căn tin dùng thanh sắt dài 20cm và 01 cái búa cạy phá lấy trộm số tiền 2.900.000đ; 11 cây thuốc lá gồm: 05 cây thuốc hiệu White Hourse, 04 cây thuốc hiệu Jet, 01 cây thuốc hiệu 555 (xuất xứ từ Anh), 01 cây thuốc hiệu caraven loại nhỏ. Sau khi trộm cắp, Quốc bắt taxi đến tiệm tạp hóa B tại 87 đường H bán toàn bộ số thuốc lá cho bà Hồ Thị L là chủ tiệm lấy 1.760.000đ, bà L đã bán lại cho khách toàn bộ số thuốc, tài sản không thu hồi được.

Theo Kết luận định giá tài sản số 78/KL-HĐĐG ngày 27/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận Hải Châu kết luận kết luận: Tổng số thuốc lá nêu trên có trị giá 2.256.999đ.

Vụ thứ tư: Khoản 23 giờ 30 phút cùng ngày, Q tiếp tục đến tầng 2 căn tin Bệnh viện Quân y 17, mở khóa cửa tầng 2 trộm cắp 10 cây thuốc lá hiệu White Hourse, 03 cây thuốc lá hiệu Marboro trắng, 02 cây thuốc lá hiệu Caraven loại lớn, 01 cây thuốc lá hiệu 555 màu bạc; 03 cây thuốc 555 (xuất xứ từ Anh), 01 cây thuốc 555 dài xanh. Sau khi lấy được tài sản Q tiếp tục bắt taxi về bán cho tiệm tạp hóa B tại 87 đường H, lúc này bà L về nhà ngủ, chồng là ông Trương Quan L trực tiếp đứng quán và thu mua số thuốc này với giá 3.200.000đ. Sau khi mua thuốc này thì bà L đã bán hết cho khách, tài sản không thu hồi được.

Theo Kết luận định giá tài sản số 78/KL-HĐĐG ngày 27/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận Hải Châu kết luận kết luận: Tổng số thuốc lá nêu trên có trị giá 4.757.663đ.

Khi nhân viên căn tin Bệnh viện Quân y 17 phát hiện mất tài sản đã trình báo Cơ quan Công an, qua trích xuất camera phát hiện Nguyễn Anh Q là người trộm cắp. Khi mời về làm việc bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi trên.

Tang vật thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi S2 (Đã trả lại cho anh Đặng Quốc T)

- 01 đôi dép nhựa màu đen, trên mặt dép có logo hình 3 ngôi sao màu đỏ, gạch vàng ở giữa;

- 01 cái quần lửng, vải kaki màu vàng xám nhạt, trên quần có nhãn hiệu Vinmaxx;

- 01 cái áo thun có cổ, màu xanh, bên ngực trái có chữ Prada, màu trắng;

- 01 thanh sắt dài 20cm, một đầu hình tròn dài 02cm, một đầu hình tròn dài 03cm, thân có hình chữ nhật kích thước 1 x 1,5cm kiểu dáng là thanh peda của bàn đạp xe đạp;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh số model: TA 1203, Imei: 357732108925709 (đã niêm phong, có đóng dấu giáp lai và chữ ký của Nguyễn Anh Q);

- 01 cây búa dài 33cm, cán bằng gỗ, đuôi cán búa có vết sơn màu đỏ, đầu búa bằng sắt, một đầu hình vuông, kích thước 03x03cm, một đầu dẹp, cong, có khe hở ở giữa dùng để nhổ đinh, chiều dài đầu búa là 14cm;

- 01 cây kiềm bấm dài 21 cm, có bọc lớp su màu đen, dài 10cm, miệng kiềm cong, kẹp dài 06cm;

- 01 tấm vải mài xanh, kích thước 1,6m x 2,44m, đã qua sử dụng;

Ngoài ra, chị Lưu Thị L giao nộp 01 đĩa CD và đại diện Doanh nghiệp tư nhân A giao nộp 02 đĩa CD trích xuất hình ảnh camera ghi lại hình ảnh bị cáo trộm cắp;

Về dân sự: Quá trình điều tra, gia đình Nguyễn Anh Q và bà Hồ Thị L đã thỏa thuận bồi thường cho Doanh nghiệp tư nhân A 9.915.000đ (Trong đó Q bồi thường 4.900.000đ, bà L bồi thường 5.015.000đ); Nguyễn Anh Q đã bồi thường cho chị Lưu Thị L 2.600.000đ; Đối với điện thoại di động của anh Đặng Quốc T Cơ quan điều tra đã thu hồi trả cho anh T. Các bị hại đều không yêu cầu gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 17 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh nói trên đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Về vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy các vật chứng là dép, quần, áo, vải, thanh sắt, búa, kiềm do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội; tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với điện thoại di động thu giữ của bị cáo, các vật chứng khác là đĩa CD do người bị hại giao nộp, đề nghị tiếp tục lưu tại hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Anh Q đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã đề cập. Bị cáo không khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Bị cáo cũng thống nhất về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và điều luật đề nghị áp dụng tại phiên tòa, chỉ xin Hội đông xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - Nguyễn Thị S khẳng định quá trình điều tra, xuất phát từ đề nghị của bị cáo, bà đã đứng ra thỏa thuận bồi thường cho các bị hại trong vụ án. Nay bà không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

Những người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác vắng mặt nhưng đã có lời khai tại hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai của bị cáo cũng như các chứng cứ, tài liệu do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Tại phiên tòa bị cáo cũng không có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng như đã đề cập. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người bị hại, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, cụ thể: Trong hai đêm 21/3/2020 và ngày 03/4/2020 trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu Nguyễn Anh Quốc đã 04 lần thực hiện việc trộm cắp tài sản tổng trị giá 13.557.662đ. Do đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 17 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét tính chất vụ án thì thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Chỉ trong hai đêm 21/3 và 03/4/2020 bị cáo đã bốn lần thực hiện hành vi trộm cắp, trong đó có đêm bị cáo thực hiện hai lần trộm cắp tại một địa điểm. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt lên đến hàng chục triệu đồng. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã một lần bị Cơ quan Công an xử phạt hành chính, hai lần bị Tòa án xét xử đều về hành vi trộm cắp tài sản nay lại tiếp tục phạm tội và thuộc trường hợp “phạm tội từ hai lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, do đó đối với bị cáo cần phải bị xử phạt thích đáng, cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo mới có tác dụng giáo dục đồng thời làm gương cho người khác.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho các bị hại và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, quá trình điều tra đã khai báo thành khẩn. Do đó HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì thấy:

[5.1] Đối với bà Hồ Thị L, Trương Quang L là chủ tiệm tạp hóa B có hành vi mua lại thuốc lá do bị cáo trộm cắp mà có, nhưng khi bán số thuốc lá này bị cáo nói dối là thuốc của gia đình nghỉ kinh doanh nên bán, do đó bà L, ông H không biết nguồn gốc tài sản do trộm cắp mà có. Quá trình điều tra, bà L, ông H cũng đã thỏa thuận trả lại tiền cho người bị hại, do đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không đề cập trách nhiệm đối với bà L, ông H là phù hợp, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5.2] Đối với bà Nguyễn Thị S là mẹ bị cáo, sau khi bị cáo tác động bà S đã tự nguyện khắc phục thiệt hại cho người bị hại. Tại phiên tòa bà S xác định đây là sự tự nguyện, không có ý kiến hay yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, gia đình Nguyễn Anh Q và bà Hồ Thị L đã thỏa thuận bồi thường cho Doanh nghiệp tư nhân A 9.915.000đ (Trong đó Q bồi thường 4.900.000đ, bà L bồi thường 5.015.000đ); gia đình bị cáo đã bồi thường cho chị Lưu Thị L 2.600.000đ; Đối với điện thoại di động của anh Đặng Quốc T Cơ quan điều tra đã thu hồi trả cho anh T. Các bị hại đều không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Đối với vật chứng là 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi S2 do bị cáo trộm cắp của anh Đặng Quốc T, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho anh Thiệp là có cơ sở. Sau khi nhận lại tài sản anh Thiệp không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét;

[7.2] Đối với các vật chứng gồm: 01 đôi dép nhựa màu đen, trên mặt dép có logo hình 3 ngôi sao màu đỏ, gạch vàng ở giữa; 01 cái quần lửng, vải kaki màu vàng xám nhạt, trên quần có nhãn hiệu Vinmaxx; 01 cái áo thun có cổ, màu xanh, bên ngực trái có chữ Prada, màu trắng; 01 thanh sắt dài 20cm, một đầu hình tròn dài 02cm, một đầu hình tròn dài 03cm, thân có hình chữ nhật kích thước 1 x 1,5cm kiểu dáng là thanh peda của bàn đạp xe đạp; 01 cây búa dài 33cm, cán bằng gỗ, đuôi cán búa có vết sơn màu đỏ, đầu búa bằng sắt, một đầu hình vuông, kích thước 03x03cm, một đầu dẹp, cong, có khe hở ở giữa dùng để nhổ đinh, chiều dài đầu búa là 14cm; 01 cây kềm bấm dài 21 cm, có bọc lớp su màu đen, dài 10cm, miệng kiềm cong, kẹp dài 06cm; 01 tấm vải mài xanh, kích thước 1,6m x 2,44m, đã qua sử dụng là các tài sản bị cáo sử dụng mục đích để ngụy trang, che đập, cạy phá cửa phục vụ cho việc trộm cắp nhưng xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

[7.3] Đối với vật chứng là 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh số model: TA 1203, Imei: 357732108925709 đây là tài sản bị cáo dùng để soi, rọi lấy tài sản nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[7.4] Đối với vật chứng là 01 đĩa CD do cho chị Lưu Thị L giao nộp; 02 đĩa CD do anh Lê T - đại diện Công Doanh nghiệp tư nhân A giao nộp là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tiếp tục lưu tại hồ sơ vụ án để phục vụ xét xử;

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Anh Q phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Anh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Anh Q 18 (Mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm:

- 01 đôi dép nhựa màu đen, trên mặt dép có logo hình 3 ngôi sao màu đỏ, gạch vàng ở giữa;

- 01 cái quần lửng, vải kaki màu vàng xám nhạt, trên quần có nhãn hiệu Vinmaxx;

- 01 cái áo thun có cổ, màu xanh, bên ngực trái có chữ Prada, màu trắng;

- 01 thanh sắt dài 20cm, một đầu hình tròn dài 02cm, một đầu hình tròn dài 03cm, thân có hình chữ nhật kích thước 1 x 1,5cm kiểu dáng là thanh peda của bàn đạp xe đạp;

- 01 cây búa dài 33cm, cán bằng gỗ, đuôi cán búa có vết sơn màu đỏ, đầu búa bằng sắt, một đầu hình vuông, kích thước 03x03cm, một đầu dẹp, cong, có khe hở ở giữa dùng để nhổ đinh, chiều dài đầu búa là 14cm;

- 01 cây kềm bấm dài 21 cm, có bọc lớp su màu đen, dài 10cm, miệng kiềm cong, kẹp dài 06cm;

- 01 tấm vải mài xanh, kích thước 1,6m x 2,44m, đã qua sử dụng;

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh số model: TA 1203, Imei: 357732108925709 (đã niêm phong, có đóng dấu giáp lai và chữ ký của Nguyễn Anh Quốc);

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu và Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng)

Tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án:

- 01 đĩa CD - R60MQ bên trong có lưu trữ 01 file trích xuất từ camera quán cà phê Milano;

- 02 đĩa CD - R60MQ bên trong có lưu trữ 05 file trích xuất từ camera an ninh ghi nhận hai vụ trộm cắp ở tầng 1, tầng 2 căn tin Bệnh viện Quân y 17;

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Buộc bị cáo Nguyễn Anh Q phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:69/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về