TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 69/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Trần Văn M (các tên gọi khác: V1, V1 C); sinh ngày 11 tháng 12 năm 1987 tại thành phố N1, tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: C*-P5, phường V2, thành phố N1, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Mạnh H1 (tên gọi khác: Trần Văn H1) và bà Đào Thúy L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án số 133/HSST ngày 12/6/2006 của Tòa án nhân dân thành phố N1, tỉnh Nam Định xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, bị cáo đã chấp hành xong và đã được xóa án tích; tại Bản án số 316/2014/HSST ngày 15/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố N1, tỉnh Nam Định xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo đã chấp hành xong và đã được xóa án tích; tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0014115/QĐ-XPHC ngày 28/6/2013 Công an xã B, huyện H2, thành phố Hồ Chí Minh phạt tiền 750.000 (bảy trăm năm mươi nghìn) đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã thi hành xong và đã được xóa tiền sự; tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 104/QĐ-XPVPHC ngày 11/7/2014 Công an thành phố N1, tỉnh Nam Định phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản, đã được xóa tiền sự; bị bắt, tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện V3, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 21/6/2020 đến nay. Có mặt.
- Bị hại: Ông Phùng Văn C1, sinh năm 1968. Địa chỉ: Thôn T1, thị trấn N2, huyện V3, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1994; địa chỉ: Khu V4, thị trấn Đ, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Thiên T2, sinh năm 1970; địa chỉ: Khu V4, thị trấn Đ, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
3. Chị Lê Thị N3, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn T1, thị trấn N2, huyện V3, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Lý Văn H3. Vắng mặt.
2. Anh Lương Văn T3. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 19/6/2020, Trần Văn M một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA (không có biển kiểm soát) đến khu xưởng của ông Phùng Văn C1 thuộc thôn N4, thị trấn N2, huyện V3, tỉnh Lạng Sơn để trộm cắp tài sản. Tại đây, Trần Văn M đi vào khu đang lắp đặt dây chuyền sản xuất, thấy không có người trông coi, Trần Văn M đã lấy trộm 01 (một) khung xe goòng có gắn bánh xe đều bằng sắt, 01 (một) nắp lồng quạt mô tơ thổi gió, 01 (một) phần sắt đặc là phần thừa của máng nước, 12 (mười hai) mảnh sắt vụn có hình dạng khác nhau. Sau đó, Trần Văn M đặt số đồ sắt lên xe mô tô rồi điều khiển xe cùng số đồ sắt trên đi đến khu vực thuộc thôn K, thị trấn N2, huyện V3, tỉnh Lạng Sơn thì bị ông Phùng Văn C1 phát hiện và trình báo Công an để giải quyết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn tiến hành tạm giữ: 01 (một) khung xe goòng kim loại có bánh xe diện 94x62x58cm; 01 (một) nắp lồng quạt máy mô tơ thổi gió mặt phẳng tròn đường kính ngoài 70cm, đường kính trong 31cm; 01 (một) phần sắt hình chữ U (dạng máng nước) diện 60x51cm; 12 (mười hai) miếng sắt vụn có kích thước khác nhau. Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra xe mô tô do Trần Văn M điều khiển và thu giữ những tài sản, đồ vật sau:
- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu xám đen, không có biển kiểm soát, có số khung: RCS1FC40EY01545*, số máy: FC4-01546*.
- 01 (một) áo mưa ni lông màu đỏ;
- 02 (hai) mỏ lết cỡ 12” dài 30cm;
- 01 (một) mỏ lết cỡ 8” dài 20cm;
- 01 (một) cờ lê cỡ 30”-32” dài 28cm;
- 01 (một) cờ lê cỡ 19” dài 22cm;
- 02 (hai) cờ lê cỡ 14”-17” dài 16cm;
- 01 (một) cờ lê cỡ 09” dài 13,5cm;
- 01 (một) kìm sắt cán cao su màu đỏ đen dài 16cm;
- 01 (một) kìm sắt nhãn hiệu ASAKI AK-8258 cỡ 10” dài 23cm;
- 01 (một) thanh sắt hình chữ J dài 17cm, hai đầu được uốn cong thành móc;
- 02 (hai) tua vít được hàn thành hình chữ T có diện 16,5cm x 15,5cm;
- 01 (một) đôi găng tay vải lao động màu đen;
- 01 (một) cây kéo cán nhựa màu tím dài 17cm;
- 01 (một) con dao Thái Lan loại gọt hoa quả dài 21 cm, cán nhựa màu vàng;
- 01 (một) tua vít dài 15cm, cán nhựa màu vàng, - 01 (một) chùm chìa khóa xâu 05 chìa khóa;
- 01 (một) chùm chìa khóa xâu 07 chìa khóa;
- 01 (một) chùm chìa khóa xâu 03 chìa khóa;
- 03 (ba) chìa khóa riêng lẻ;
- 02 (hai) cuộn dây đồng có diện 03cm x 02cm;
- 01 (một) khẩu trang vải kẻ ca rô đã qua sử dụng;
- 01 (một) mũ lưỡi trai vải màu đen, cũ, đã qua sử dụng;
- 01 đèn pin màu đen đã qua sử dụng dài 9,5cm, đường kính 2,5cm.
Quá trình điều tra, Trần Văn M khai nhận đã nhiều lần vào khu xưởng của ông Phùng Văn C1 trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:
Lần 1: Khoảng đầu tháng 5/2020, Trần Văn M một mình vào khu xưởng trộm 01 (một) vỏ mô tơ màu xanh cùng một số xoong, nồi. Sau đó, Trần Văn M mang vỏ mô tơ bán cho anh Nguyễn Thiên T2 (địa chỉ: Khu V4, thị trấn Đ, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn) được 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, Trần Văn M đã sử dụng hết số tiền này; Trần Văn M bán số soong, nồi cho một người đi qua đường gặp ở khu vực thị trấn Đ, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn, không biết họ tên, địa chỉ, không nhớ nơi bán và bán được bao nhiêu tiền do đó Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ và thu hồi được.
Lần 2: Khoảng 18 giờ ngày 12/5/2020, Trần Văn M một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA (không có biển kiểm soát) đi tới khu vực xưởng của ông Phùng Văn C1 để trộm cắp tài sản. Tại đây, Trần Văn M đến ngôi nhà cấp 4 là nhà kho trong khu xưởng, lúc này cửa đang khóa và không có người trông coi. Trần Văn M lấy đồ chuẩn bị trong cốp xe để phá khóa cửa vào và soi đèn pin lấy trộm 01 (một) máy bơm và 03 (ba) máy cắt cỏ. Sau đó, Trần Văn M chở số máy trên đến cửa hàng sửa chữa, thu mua đồ điện bán cho anh Nguyễn Văn B (địa chỉ: Khu V4, thị trấn Đ, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn, là chủ cửa hàng) được 1.800.000 (một triệu tám trăm nghìn) đồng, Trần Văn M dùng số tiền trên mua ma túy và đã sử dụng hết.
Lần 3: Giữa tháng 6/2020, Trần Văn M tiếp tục một mình vào khu xưởng lấy trộm 01 (một) bó sắt gồm 20 (hai mươi) thanh sắt cùng loại và mang bán cho chị Lê Thị N3 (địa chỉ: Thôn T1, thị trấn N2, huyện V3, tỉnh Lạng Sơn) được 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng, số tiền bán được Trần Văn M mua ma túy và đã sử dụng hết.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã tiến hành xác minh, thu hồi được các tài sản do Trần Văn M trộm cắp như sau:
- 01 (một) máy bơm nước nhãn hiệu 3WCB – 26 công suất 1.5KW;
- 01 (một) máy cắt cỏ nhãn hiệu MARUYAMA AE420;
- 01 (một) máy cắt cỏ nhãn hiệu MARUYAMA MBC 235;
- 01 (một) máy cắt cỏ nhãn hiệu MARUYAMA 2300;
- 01 (một) bó sắt gồm 20 (hai mươi) thanh sắt cùng loại, dài 4,2m, rỗng, đường kính ngoài 10mm, đường kính trong 07mm, tổng trọng lượng 28kg;
- 01 (một) vỏ mô tơ bằng kim loại hình trụ màu xanh, bên trong gắn cuộn dây đồng hình trụ có tổng trọng lượng 64kg;
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã ra văn bản yêu cầu định giá tài sản đối các tài sản mà bị cáo trộm cắp. Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện V3, tỉnh Lạng Sơn đã tiến hành định giá tài sản và có kết luận như sau:
Tại Kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐGTS ngày 20/6/2020 xác định: Tổng giá trị 01 (một) máy bơm nước nhãn hiệu 3WCB-26 và 03 (ba) máy cắt cỏ nhãn hiệu MARUYAMA do Trần Văn M trộm cắp được ngày 12/5/2020 tại thời điểm định giá có tổng giá trị là 6.100.000 (sáu triệu một trăm nghìn) đồng.
Tại Kết luận định giá tài sản số 143/KL-HĐĐGTS ngày 22/6/2020 kết luận tổng giá trị tài sản do Trần Văn M trộm cắp được ngày 19/6/2020 là 484.000 (bốn trăm tám mươi tư nghìn) đồng.
Tại Kết luận định giá tài sản số 159/KL-HĐĐGTS ngày 17/7/2020 kết luận 01 (một) vỏ mô tơ bằng kim loại do Trần Văn M trộm cắp đầu tháng 5/2020 có giá trị là 515.000 (năm trăm mười lăm nghìn) đồng.
Tại Kết luận định giá tài sản số 161/KL-HĐĐGTS ngày 20/7/2020 kết luận 01 (một) bó sắt do Trần Văn M trộm cắp khoảng giữa tháng 6/2020 có tổng giá trị là 153.000 (một trăm năm ba nghìn) đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo, bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về kết luận định giá; đều nhất trí với kết luận định giá tài sản.
Ngày 12/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản bị trộm cắp nêu trên cho chủ sở hữu.
Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 07/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trần Văn M về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng do không có tiền để tiêu xài nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Bị hại ông Phùng Văn C1 có mặt tại phiên tòa trình bày: Ông đã được trả lại đầy đủ các tài sản bị cáo trộm cắp mà cơ quan điều tra đã thu hồi được. Ông không có yêu cầu gì, đề nghị Tòa án xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều vắng mặt tại phiên tòa. Tại các biên bản lấy lời khai, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt đều trình bày khi mua những tài sản nêu trên, họ không biết là tài sản do phạm tội mà có, đã nộp lại cho cơ quan điều tra và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền đã bỏ ra mua các đồ vật, tài sản đó.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội Trộm cắp tài sản; áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 12 tháng đến 15 tháng tù giam. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đề nghị truy thu số tiền 2.450.000 (hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng do phạm tội mà có; tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 (một) xe mô tô của bị cáo Trần Văn M; tịch thu tiêu hủy những đồ vật, tài sản của bị cáo được niêm phong trong một thùng bìa cát tông, do dùng vào việc phạm tội.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị hại đề nghị xử lý nghiêm theo quy định. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận xin được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Từ đầu tháng 5/2020 đến ngày 19/6/2020, Trần Văn M đã nhiều lần đến khu vực xưởng của ông Phùng Văn C1 tại thôn N4, thị trấn N2, huyện V3, tỉnh Lạng Sơn để lén lút trộm cắp tài sản có tổng giá trị là 7.252.000 (bảy triệu hai trăm năm mươi hai nghìn) đồng. Cụ thể: Lần 1, khoảng đầu tháng 5/2020, lấy trộm 01 (một) vỏ mô tơ màu xanh cùng một số xoong, nồi, bán vỏ mô tơ được 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, kết luận định giá trị giá chiếc mô tơ là 515.000 (năm trăm mười lăm nghìn) đồng; lần 2, ngày 12/5/2020, Trần Văn M lấy trộm 01 (một) máy bơm nước và 03 (ba) máy cắt cỏ, bán được 1.800.000 (một triệu tám trăm nghìn) đồng, kết luận định giá 01 (một) máy bơm nước và 03 (ba) máy cắt cỏ có tổng giá trị là 6.100.000 (sáu triệu một trăm nghìn) đồng; lần 3, giữa tháng 6/2020, Trần Văn M lấy trộm 01 (một) bó sắt gồm 20 (hai mươi) thanh sắt cùng loại và mang bán được 150.000 đồng, kết luận định giá là 153.000 (một trăm năm ba nghìn) đồng; lần 4, ngày 19/6/2020, Trần Văn M lấy trộm 01 (một) khung xe goòng kim loại, 01 (một) nắp lồng quạt máy mô tơ thổi gió, 01 (một) phần sắt hình chữ U (dạng máng nước); 12 (mười hai) miếng sắt vụn chưa kịp mang đi tiêu thụ thì bị phát hiện, kết luận định giá số tài sản bị cáo lấy trộm ngày 19/6/2020 là 484.000 (bốn trăm tám mươi tư nghìn) đồng. Bị cáo trộm cắp tài sản với mục đích bán để lấy tiều tiêu sài và mua ma túy về sử dụng. Trong các lần thực hiện hành vi trộm cắp nêu trên thì lần 2 (ngày 12/5/2020) bị cáo đã trộm 01 (một) máy bơm nước và 03 (ba) máy cắt cỏ có tổng giá trị là 6.100.000 (sáu triệu một trăm nghìn) đồng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản sự việc, lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, bản vẽ hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nêu trên, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, là vi phạm pháp luật, nhưng vì vụ lợi muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền cho mục đích cá nhân mà không phải lao động nên vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Văn M phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đối với lần trộm cắp vào đầu tháng 5/2020, giữa tháng 6/2020 và ngày 19/6/2020, do những lần trộm cắp này không liên tục, giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, Viện kiểm sát không truy tố nên chỉ xem xét đánh giá về nhân thân của bị cáo.
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang trong dư luận. Bị cáo nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để có tiền tiêu xài cá nhân, đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; người thân của bị cáo giúp bị cáo nộp tiền khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[6] Về nhân thân: Bị cáo đã hai lần bị kết án và hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính, đều đã được xóa nhưng xét thấy bị cáo có nhân thân xấu.
[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 15/9/2020 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, bản thân nghiện ma túy, không sở hữu tài sản có giá trị; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại các tài sản bị trộm cắp đã thu giữ, thu hồi được cho ông Phùng Văn C1 là chủ sở hữu, là phù hợp với quy định. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu xám đen, không có biển kiểm soát là phương tiện dùng vào việc phạm tội; tịch thu tiêu huỷ các đồ vật bị cáo chuẩn bị, dùng vào việc trộm cắp tài sản, vật không sử dụng được, tất cả được niêm phong trong một hộp bìa cát tông; truy thu số tiền bán tài sản trộm cắp mà có là 2.450.000 (hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng đối với bị cáo Trần Văn M do phạm tội mà có để nộp vào ngân sách Nhà nước; người thân của bị cáo đã giúp bị cáo nộp tiền khắc phục hậu quả nhưng do không có yêu cầu bồi thường nên số tiền đã nộp sẽ được khấu trừ vào số tiền bị truy thu.
[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Bị hại đã nhận lại các tài sản bị chiếm đoạt mà cơ quan điều tra đã thu hồi được và không có yêu cầu gì nên không xem xét. Ghi nhận anh Nguyễn Văn B, anh Nguyễn Thiên T2 và chị Lê Thị N3 không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền đã bỏ ra để mua các tài sản bị cáo mang đến bán đã bị cơ quan điều tra thu hồi trong vụ án này.
[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Đối với Nguyễn Văn B, Nguyễn Thiên T2 và Lê Thị N3 do không biết số tài sản Trần Văn M mang đến để tiêu thụ là tài sản do trộm cắp mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự.
[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn M (các tên gọi khác: V1, V1 C) phạm tội Trộm cắp tài sản.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Trần Văn M (các tên gọi khác: V1, V1 C) 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 21/6/2020.
3. Về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Ghi nhận anh Nguyễn Thiên T2, anh Nguyễn Văn B và chị Lê Thị N3 không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền đã bỏ ra để mua số tài sản bị cáo mang đến tiêu thụ đã bị cơ quan điều tra thu hồi trong vụ án này.
4. Về biện pháp tư pháp: Truy thu đối với bị cáo Trần Văn M (các tên gọi khác: V1, V1 C) số tiền 2.450.000 (hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước. Bị cáo đã nộp 2.000.000 (hai triệu) đồng, theo biên lai thu tiền số AA/2015/0008093 ngày 12/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V3, tỉnh Lạng Sơn. Bị cáo còn phải nộp tiếp 450.000 (bốn trăm năm mươi nghìn) đồng.
5. Về xử lý vật chứng:
5.1. Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại cho bị hại là ông Phùng Văn C1 các tài sản gồm: 01 (một) máy bơm nước nhãn hiệu 3WCB – 26 công suất 1,5KW; 01 (một) máy cắt cỏ nhãn hiệu MARUYAMA AE420; 01 (một) máy cắt cỏ nhãn hiệu MARUYAMA MBC 235; 01 (một) máy cắt cỏ nhãn hiệu MARUYAMA 2300; 01 (một) khung xe goòng kim loại có bánh xe diện 94x62x58cm; 01 (một) nắp lồng quạt máy mô tơ thổi gió mặt phẳng tròn đường kính ngoài 70cm, đường kính trong 31cm;
01 (một) phần sắt hình chữ U (dạng máng nước) diện 60x51cm; 12 (mười hai) miếng sắt vụn có kích thước khác nhau; 01 (một) bó sắt gồm 20 (hai mươi) thanh sắt cùng loại, rỗng, dài 4,2m, đường kính ngoài 10mm, đường kính trong 07mm; 01 (một) vỏ mô tơ bằng kim loại hình trụ màu xanh, bên trong gắn cuộn dây đồng hình trụ (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 12/8/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn).
5.2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu xám đen, không có biển kiểm soát, có số khung: RCS1FC40EY01545*, số máy: FC4-01546* của bị cáo Trần Văn M (các tên gọi khác: V1, V1 C).
5.3. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) hộp bìa cát tông màu xanh có diện 31cm x 22cm x 22 cm, các mép hộp được dán giấy niêm phong có chữ ký cùng tên của các thành phần tham gia niêm phong, đóng dấu xác nhận của Công an thị trấn N2, huyện V3, tỉnh Lạng Sơn. Bên trong là các đồ vật của bị cáo Trần Văn M (các tên gọi khác: V1, V1 C), gồm: 01 (một) áo mưa ni lông màu đỏ; 02 (hai) mỏ lết cỡ 12” dài 30cm; 01 (một) mỏ lết cỡ 8” dài 20cm; 01 (một) cờ lê cỡ 30”-32” dài 28cm; 01 (một) cờ lê cỡ 19” dài 22cm; 02 (hai) cờ lê cỡ 14”-17” dài 16cm; 01 (một) cờ lê cỡ 09” dài 13,5cm; 01 (một) kìm sắt cán cao su màu đỏ đen dài 16cm; 01 (một) kìm sắt nhãn hiệu ASAKI AK-8258 cỡ 10” dài 23cm;
01 (một) thanh sắt hình chữ J dài 17cm, hai đầu được uốn cong thành móc; 02 (hai) tua vít được hàn thành hình chữ T có diện 16,5cm x 15,5cm; 01 (một) đôi găng tay vải lao động màu đen; 01 (một) cây kéo cán nhựa màu tím dài 17cm;
01 (một) con dao Thái Lan loại gọt hoa quả dài 21 cm, cán nhựa màu vàng; 01 (một) tua vít dài 15cm, cán nhựa màu vàng, 01 (một) chùm chìa khóa xâu 05 chìa khóa; 01 (một) chùm chìa khóa xâu 07 chìa khóa; 01 (một) chùm chìa khóa xâu 03 chìa khóa; 03 (ba) chìa khóa riêng lẻ; 02 (hai) cuộn dây đồng có diện 03cm x 02cm; 01 (một) khẩu trang vải kẻ ca rô đã qua sử dụng; 01 (một) mũ lưỡi trai vải màu đen, cũ, đã qua sử dụng; 01 đèn pin màu đen đã qua sử dụng dài 9,5cm, đường kính 2,5cm.
(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V3, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08/10/2020).
6. Về án phí: Bị cáo Trần Văn M (các tên gọi khác: V1, V1 C), phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
7. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 69/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 69/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về