Bản án 69/2020/HSST ngày 02/06/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 69/2020/HSST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 02 tháng 6 năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2020/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2020, Thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án, Quyết định hoãn phiên tòa và Thông báo mở lại phiên tòa, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức T, sinh năm 1970;

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Khu 4, P. CT, TP. HD, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Con ông Nguyễn Đức B; Con bà Đinh Thị D (đã chết); Có vợ là Vũ Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2005; Tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án HSST số 146 ngày 10/8/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Đánh bạc (ra trại ngày 15/6/2019).

Nhân thân:

Bản án số HSST số 16 ngày 23/4/1991, Tòa án nhân dân thị xã Hải Dương xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội Hủy hoại tài sản.

Bản án HSST số 62 ngày 17/7/1992, Tòa án nhân dân thị xã Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân và tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của bản án HSST số 16 ngày 23/4/1991, buộc chấp hành chung là 18 tháng tù. Bản án HSST số 83 ngày 06/5/1994, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Hưng xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân.

Ngày 20/9/2000, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc phạt tiền 500.000đ (chấp hành ngày 21/9/2000).

Ngày 21/01/2003, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc phạt tiền 500.000đ (chấp hành ngày 18/5/2004) Bản án HSST số 10 ngày 17/01/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (giá trị tài sản trộm cắp 800.000đ, miễn nghĩa vụ thi hành án ngày 15/6/2011 ).

Ngày 16/01/2014, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.

Ngày 18/3/2014, Công an phường Bình Hàn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, số tiền 1.500.000 đồng (chấp hành ngày 18/3/2014).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương (có mặt tại phiên tòa).

2. Đinh Đức D1, sinh năm 1961;

Nơi ĐKNKTT: Số 29 AT, P. BH, TP. HD, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Số 24/441 ĐBP, P. BH, TP. HD, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/10; Con ông Đinh Đức S và bà Nghiêm Thị P (đều đã chết); Có vợ là Trần Thị T (đã ly hôn ) và có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1990; Tiền sự: không;

Tiền án: Bản án HSST số 146 ngày 10/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 05 tháng tù về tội Đánh bạc (ra trại ngày 15/02/2019).

Nhân thân:

Ngày 26/10/1993, Công an thị xã Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.

Bản án số 185/HSST ngày 19/12/1996, TAND thị xã Hải Dương xử phạt 30 tháng tù giam về tội Tổ chức đánh bạc hoặc Gá bạc.

Ngày 04/6/2007, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc, số tiền 500.000 đồng.

Ngày 19/01/2017, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc, số tiền 1.500.000 đồng (nộp phạt ngày 25/01/2017);

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. (có mặt tại phiên tòa).

3. Vũ Đình T2, sinh năm 1978;

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: thôn ĐG, xã AT1, thành phố HD, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; con ông Vũ Đình B1 (đã chết) và bà Đào Thị X; có vợ là Đỗ Thị Dị và 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2003;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 01/03/2005, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, số tiền 500.000 đồng (nộp phạt ngày 01/03/2005).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 26/12/2019, hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa).

4. Hoàng Văn L, sinh năm 1981;

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Số 5/65 NHC, P. NC, TP. HD, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 1/12; Con ông Hoàng Văn L1 (đã chết); con bà Lê Thị H1; có vợ Nguyễn Thị T3 và 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 22/02/2008, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc, số tiền 750.000 đồng (nộp phạt ngày 28/02/2008).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 26/12/2019, hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa).

5. Lê Văn S1, sinh năm 1983;

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: thôn N, xã TT, huyện GL, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Lê Văn K và bà Phạm Thị M; Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con thứ ba; chưa có vợ con; Tiền sự: không.

Tiền án: Tại bản án HSST số 80 ngày 29/10/2015, TAND huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt tiền 13.000.000 đồng về tội đánh bạc (chấp hành xong hình phạt và án phí ngày 18/12/2019).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 26/12/2019, hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa).

6. Phạm Xuân T4, sinh năm 1978;

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: thôn NX, xã ĐS, huyện TK, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Phạm Đức T và bà Nguyễn Thị N1; có vợ là Nguyễn Thị M1 và 01 con sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 26/12/2019, hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa).

7 . Hà Thị C, sinh năm 1963;

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Số 11/20 QT, P. BH, TP. HD, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/10; Con ông Hà Ngọc S2 và bà Đinh Thị B2 (đều đã chết); có chồng Nguyễn Cao T6; có 02 con, con lớn sinh năm 1985, con nhỏ sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

Bản án HSST số 102 ngày 10/10/2002, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc (chấp hành án phí ngày 29/6/2009).

Bản án HSST số 68 ngày 24/6/2004, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 21 tháng tù về tội Gá bạc (ra trại ngày 30/8/2005, chấp hành xong án phí và số tiền tịch thu vào năm 2005).

Bản án HSST số 39 ngày 17/3/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc (chấp hành án phí và khấu trừ thu nhập ngày 17/3/2015; đình chỉ thi hành án về tiền phạt ngày 25/9/2017).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 26/12/2019, hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

1. Bà Mai Thị H1, sinh năm 1954 Địa chỉ: Số 38A BS, P. QT, TP. HD, Hải Dương.

2. Bà Hà Thị N2, sinh năm 1966 Địa chỉ: Số 38 BS, P. QT, TP. HD, Hải Dương;

3. Ông Phạm Đức T7, sinh năm 1962 Địa chỉ: Khu TL, P. AT1, TP. HD, Hải Dương;

4. Anh Đinh Văn T8, sinh năm 1971 Địa chỉ: Khu 5, P. CT, TP. HD, Hải Dương;

5. Anh Đinh Hồ P1, sinh năm 1976 Địa chỉ: Số 210 HN, P.CT, TP.HD, Hải Dương;

6. Chị Đinh Thị Thu H2, sinh năm 1988 Địa chỉ: Số 5B/33 BS, P. QT, TP. HD, Hải Dương;

7. Chị Nguyễn Thị T9, sinh năm 1994 Địa chỉ: Số 14 AN, P. QT, TP. HD, Hải Dương;

8. Bà Đào Thị T10, sinh năm 1956 Địa chỉ: Số 3/5 NTH, P.TP, TP.HD, Hải Dương;

9. Anh Vũ Anh T11, sinh năm 1988 Địa chỉ: Khu 6, P. CT, TP. HD, tỉnh Hải Dương;

10. Chị Phạm Thị Phương H3, sinh năm 1974 Địa chỉ: Số 12E/426 ĐBP, P. BH, TP. HD, tỉnh Hải Dương;

11. Ông Bùi Anh N2, sinh năm 1963 Địa chỉ: Thôn PM, xã ĐN, huyện KC, tỉnh Hưng Yên.

12. Anh Nguyễn Văn T12, sinh năm 1979 Địa chỉ: Khu 4 phường NC, thành phố HD, tỉnh Hải Dương;

13. Anh Nguyễn Đình L2, sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn DC, xã TK, huyện TS, tỉnh Phú Thọ.

(Đu vắng mặt những người làm chứng).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 20/12/2019, Nguyễn Đức T, Đinh Đức D1, Lê Văn S1, Hoàng Văn L, Vũ Đình T2, Phạm Xuân T4 và Hà Thị C đến nhà chị Hà Thị N2, sinh năm 1966 ở số 38B BS, phường QT, thành phố Hải Dương để dự đám cưới của anh Bùi Xuân C1, sinh năm 1995 (là con trai chị N2). Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, sau khi dự đám cưới xong, cả nhóm thấy nhà bà Mai Thị H1, sinh năm 1954, ở số 38A BS, phường QT, thành phố Hải Dương mở cửa không có ai ở nhà nên đi vào tham gia đánh xóc đĩa được thua bằng tiền.

Hình thức chơi là người cầm cái cho 04 quân vị bài có hai mặt màu trắng và màu vàng được cắt từ vỏ bao thuốc lá Vinataba vào đĩa sứ rồi dùng bát úp lên và xóc.

Trong quá trình chơi Nguyễn Đức T là người cầm cái xóc để D1, S1, L, T2, T4 và C chọn cửa, đặt tiền. Cả nhóm đánh bạc đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra về trật tự xã hội - Công an thành phố Hải Dương phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại nơi đánh bạc 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị, 01 thảm nỉ màu đỏ và số tiền dưới chiếu bạc là 5.900.000 đồng, thu giữ số tiền đánh bạc trên người của T là 50.000 đồng, của D1 5.015.000 đồng, của L 550.000 đồng, của T2 4.600.000 đồng và thu giữ của C 600.000 đồng (không dùng để đánh bạc).

Quá trình điều tra xác định số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc như sau: Nguyễn Đức T sử dụng 50.000 đồng khi bị bắt có 50.000 đồng; Đinh Đức D1 sử dụng 5.165.000 đồng đánh bạc khi bị bắt còn 5.015.000 đồng; Vũ Đình T2 sử dụng 4.800.000 đồng đánh bạc khi bị bắt còn 4.600.000 đồng; Hoàng Văn L sử dụng 1.150.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt còn 550.000 đồng; Lê Văn S1 sử dụng 300.000 đồng đánh bạc khi bị bắt thua hết; Phạm Xuân T4 sử dụng 200.000 đồng, khi bị bắt thua hết; Hà Thị C sử dụng 100.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt thua hết.

Ti bản cáo trạng số 16/CT-VKSTPHD ngày 13/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt là VKSND) thành phố Hải Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Đức T, Đinh Đức D1, Vũ Đình T2, Hoàng Văn L, Lê Văn S1, Phạm Xuân T4 và Hà Thị C phạm tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự (viết tắt là BLHS).

Ti phiên tòa sơ thẩm:

- Các bị cáo cơ bản khai nhận hành vi phạm tội như tại giai đoạn điều tra và truy tố. Các bị cáo xác định tổng số tiền các bị cáo đánh bạc với nhau là 16.115.000 đồng, do không tham gia đánh bạc từ đầu nên không biết ai là người khởi xướng và chuẩn bị dụng cụ đánh bạc.

- Đại diện VKSND thành phố Hải Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức T, Đinh Đức D1, Vũ Đình T2, Hoàng Văn L, Lê Văn S1, Phạm Xuân T4 và Hà Thị C phạm tội Đánh bạc.

Căn cứ khoản 1 và 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 BLHS đối với tất cả các bị cáo; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS đối với T, D1 và S1; điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS đối với D1; điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS với T2, L và T4; khoản 2 Điều 51 BLHS với C; các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 65 BLHS với T2, L và C; Điều 36 BLHS với T4.

Xử phạt: T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, D1 từ 10 tháng đến 12 tháng tù, S1 từ 07 tháng đến 09 tháng tù, T2 từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, L từ 07 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, C từ 07 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, T4 từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ và khấu trừ từ 05% đến 10% thu nhập hàng tháng. Và giao người được hưởng án treo, người bị phạt cải tạo không giam giữ cho chính quyền địa phương nơi người đó đang cư trú để giám sát, giáo dục.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền đối với tất cả 07 bị cáo, mỗi bị cáo từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ.

Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị xử lý vật chứng và nghĩa vụ chịu án phí của các bị cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan điều tra, truy tố trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ 21 giờ đến 22 giờ ngày 20/12/2019, tại nhà ở của bà Mai Thị H1 ở số 38A BS, phường QT thành phố Hải Dương, Nguyễn Đức T, Đinh Đức D1, Vũ Đình T2, Hoàng Văn L, Lê Văn S1, Phạm Xuân T4 và Hà Thị C có hành vi đánh bạc trái phép, dưới hình thức chơi xóc đĩa, thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 16.115.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Do đó các bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS. VKSND thành phố Hải Dương truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xem xét vai trò của các bị cáo:

Đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn. Trong vụ án này không xác định được ai là người đề xuất và chuẩn bị dụng cụ đánh bạc. Nguyễn Đức T là tham gia đánh bạc với số tiền 50.000đ, là người cầm cái, sát phạt trực tiếp với những bị cáo còn lại nên T là người thực hành tích cực, giữ vai trò chính trong vụ án. Các bị cáo còn lại Đinh Đức D1, Vũ Đình T2, Hoàng Văn L, Lê Văn S1, Phạm Xuân T4 và Hà Thị C đều đồng phạm với vai trò là người thực hành. Căn cứ số tiền từng bị cáo dùng vào việc đánh bạc thì thấy D1 (5.165.000 đ) và T2 (4.800.000đ) có số tiền đánh bạc nhiều nhất, sau đó đến các bị cáo khác là Hoàng Văn L (1.150.000 đ), Lê Văn S1 (300.000đ), Phạm Xuân T4 (200.000đ) và cuối cùng là Hà Thị C (100.000đ). Nên các bị cáo D1 và T2 giữ vai trò thứ 2 trong vụ án, sau đó là các bị cáo L, S1, T4 và C.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo T, D1 và S1 đều có tiền án về tội Đánh bạc. Các bị cáo này chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội, nên lần phạm tội này các bị cáo T, D1 và S1 phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Các bị cáo T2, L, T4 và C không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo L, T2, T4 đều lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo D1 có bố đẻ là Liệt sĩ nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo C có bố đẻ được tặng Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

[4]. Về hình phạt chính: Xét tính chất mức độ nguy hiểm hành vi, vị trí vai trò cũng như tình tiết tăng tặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo thì thấy: Các bị cáo T, D1 và S1 đều là các đối tượng có tiền án, vừa mới chấp hành xong bản án, lần phạm tội này là tái phạm. T và D1 nhân nhân xấu, từng bị kết án và xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần, thể hiện các bị cáo ý thức chấp hành pháp luật kém. Nên cần bắt các bị cáo T, D1 và S1 cải tạo tại trại giam một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.

Đi với bị cáo T2 và bị cáo L đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, bị cáo C từng bị kết án nhưng đến nay các bị cáo đều được xóa nhiều năm nay. Các bị cáo phạm tội mang tính cơ hội, bột phát, tính chất hành vi ít nghiêm trọng, không phải vai trò chủ mưu, đầu vụ, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định và rõ ràng. Vì vậy, không cần thiết bắt các bị cáo cải tạo tại trại giam, cho bị cáo được hưởng án treo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Đi với bị cáo T4 là người có vai trò thứ yếu trong vụ án, nhân thân tốt, không có tiền án và tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú ổn định và rõ ràng nên cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ, sung quỹ Nhà nước cũng đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung hiệu quả.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả 07 bị cáo.

[6]. Về vật chứng:

- 01 thảm nỉ màu đỏ thu giữ khi phát hiện, chị Hà Thị N2 là chủ sở hữu không biết các bị cáo sử dụng thảm nỉ để đánh bạc nên cơ quan CSĐT trả lại cho chị N2 là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Số tiền 16.115.000đ là tiền dùng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Số tiền 600.000 của bị cáo Hà Thị C không dùng vào mục đích đánh bạc nên trả lại cho bị cáo C nhưng thu giữ lại để đảm bảo thi hành án.

- 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng và quân bài vị là dụng cụ đánh bạc nên tịch thu cho tiêu hủy.

[7]. Về các vấn đề khác: Bà Mai Thị H1 là chủ nhà không biết các bị cáo đánh bạc tại nhà mình và không thu tiền hồ nên không có căn cứ xử lý.

[8]. Về án phí: Các bị cáo T, T2, L, T4, S1 và C bị kết tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo D1 có bố đẻ là liệt sĩ nên được miễn án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về áp dụng pháp luật:

- Căn cứ khoản 1 và 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Đức T.

- Căn cứ khoản 1 và 3 Điều 321, điểm s, x khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với Đinh Đức D1.

- Căn cứ khoản 1 và 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với Lê Văn S1.

- Căn cứ khoản 1 và 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với Vũ Đình T2.

- Căn cứ khoản 1 và 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với Hoàng Văn L.

- Căn cứ khoản 1 và 3 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với Hà Thị C.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 Bộ luật Hình sự đối với Phạm Xuân T4.

- Điều 47 và 48 Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[2]. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức T, Đinh Đức D1, Vũ Đình T2, Hoàng Văn L, Lê Văn S1, Phạm Xuân T4 và Hà Thị C phạm tội “Đánh bạc”.

[3]. Về hình phạt chính:

- Xử phạt Nguyễn Đức T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/12/2019.

- Xử phạt Đinh Đức D1 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/12/2019.

- Xử phạt Lê Văn S1 08 (tám) tháng tù, được trừ đi 06 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 07 (bẩy) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Xử phạt Vũ Đình T2 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt Hoàng Văn L 08 (tám) tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách là 16 (mười sáu) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt Hà Thị C 07 (bẩy) tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Vũ Đình T2 cho Ủy ban nhân dân xã AT1, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Hoàng Văn L cho Ủy ban nhân dân phường NC, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Hà Thị C cho Ủy ban nhân dân phường BH, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

- Xử phạt Phạm Xuân T4 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ đi 06 (sáu) ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 14 (mười bốn) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã ĐS, huyện TK, tỉnh Hải Dương nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của bị cáo Phạm Xuân T4 trong thời gian cải tạo không giam giữ sung quỹ Nhà nước.

Giao bị cáo Phạm Xuân T4 cho Ủy ban nhân dân xã ĐS, huyện TK, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Phạt các bị cáo Nguyễn Đức T, Đinh Đức D1, Vũ Đình T2, Hoàng Văn L, Lê Văn S1, Phạm Xuân T4 và Hà Thị C mỗi bị cáo là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo Hà Thị C số tiền 600.000đ nhưng giữ lại để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước số tiền 16.115.000đ (Số tiền trên được đựng trong 02 bì niêm phong số 178A-CATPHD và số 178B-CATPHD).

- Tịch thu cho tiêu hủy 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng và các quân bài vị.

(Hin số vật chứng trên do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/3/2020 giữa Công an thành phố Hải Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương).

[6]. Về án phí: Các bị cáo T, T2, L, T4, S1 và C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo D1 được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

450
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/HSST ngày 02/06/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:69/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về