TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 69/2020/HS-PT NGÀY 13/08/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 13 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2020/TLPT-HS ngày 12 tháng 6 năm 2020 do có kháng cáo của các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B và Hà Văn Q.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 155/2020/QĐXXPT-HS, ngày 08 tháng 7 năm 2020.
Bị cáo kháng cáo:
1. Họ và tên: Hà Văn T, sinh ngày 02/02/1987 tại S, Phú Thọ; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Xóm X 2, xã M, huyện S, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Hà Văn N (đã chết); Mẹ đẻ: Hà Thị M (đã chết); Vợ: Hà Thị Đ, sinh năm 1985; Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án: Không;Tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 13/2017/HSST ngày 29/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện S xử phạt bị cáo 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo đã thi hành xong toàn bộ bản án, đã được đương nhiên xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2019 đến ngày 18/10/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh; (Có mặt).
2. Họ và tên: Hà Văn Q, sinh ngày 19/10/1991 tại S, Phú Thọ; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Xóm X, xã M, huyện S, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Hà Văn H, sinh năm 1970; Mẹ đẻ: Lê Thị H, sinh năm 1972; Vợ: Hà Thị H, sinh năm 1994; Con: có 02 lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018; Tiền án: Không. Tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 26/12/2018 Công an huyện S xử phạt vi phạm phạm hành chính Hà Văn Q 1.500.000đ về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo đã nộp phạt vào ngày 08/01/2019. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. (Có mặt).
3. Họ và tên: Hà Văn B, sinh ngày 27/6/1992 tại S, Phú Thọ; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Xóm Xè 2, xã M, huyện S, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Hà Mạnh A, sinh năm 1957; Mẹ đẻ: Trần Thị L, sinh năm 1963; Vợ: Đặng Kim M, sinh năm 1993; Con: có 01 con sinh năm 2014; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 13/2017/HSST ngày 29/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện S xử phạt bị cáo 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo đã thi hành xong toàn bộ bản án, đã được đương nhiên xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2019 đến ngày 18/10/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh; (Vắng mặt).
* Những người bào chữa cho các bị cáo gồm:
1. Bà Đinh Thị Hạnh - Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ. Bào chữa cho bị cáo Hà Văn T và Hà Văn Q;
(Có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Ông Bùi Đức Dũng - Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ. Bào chữa cho bị cáo Hà Văn B; (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Những người tham gia tố tụng khác Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 28/9/2019, sau khi uống rượu xong, Hà Văn D, Đinh Công C, Tạ Văn T, Hà Văn Q đều thường trú tại xã M, huyện S đi đến quán bán hàng tạp hóa của Hà Văn G, sinh năm 1985 ở xóm Xè 2, xã M, huyện S ngồi chơi, uống nước. Khi đang ngồi uống nước thì G nói “Có chơi không thì vào bếp mà chơi”, tất cả đều hiểu G hỏi có đánh bạc không thì đều đồng ý và đi vào gian bếp của nhà G. G lấy 01 bộ bài tú lơ khơ đưa cho T và nói “Chúng mày chơi trước đi, tí tao chơi sau”. D, C, T, Q ngồi xuống chiếu đã trải sẵn và thống nhất chơi ba cây ăn tiền. Sau đó có Hà Mạnh R; Hà Văn T; Hà Văn B; Hà Văn S đều ở cùng khu Xè 2 theo thứ tự cũng lần lượt đến và tham gia đánh bạc. Trong đó S không ngồi chơi mà đứng sau lưng Đinh Công C và dùng kết quả bài của C để tham gia đánh bạc. Khi tất cả đang chơi thì G đi vào và nói “Anh em bố trí tiền điện đóm đi” thì tất cả hiểu ý G muốn thu tiền “Hồ”.B, T, Q, C, T mỗi người bỏ ra 20.000 đồng, tổng là 100.000 đồng trả cho G. Quá trình chơi, G đi ra vào cảnh giới và nhắc tất cả nói nhỏ để công an khỏi phát hiện. G cũng dùng kết quả bài của Hà Văn B tham gia chơi 03 ván bài. Đến khoảng 02 giờ ngày 29/9/2019 khi các bị cáo đang đánh bạc thì bị Công an huyện S bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 5.470.000 đồng; 36 quân bài; 01 chiếu nhựa đôi đã cũ. Thu giữ trên người Hà Mạnh R số tiền 1.100.000 đồng. Công an huyện S đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và đưa các bị cáo về trụ sở làm việc. Quá trình bắt quả tang, lợi dụng sự lộn xộn Hà Văn Q, Hà Văn G và Đinh Công C đã bỏ trốn.
Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận rõ hành vi đánh bạc của mình. Các bị cáo đều thừa nhận đã tham gia đánh bạc cùng các bị cáo còn lại. Lời khai của các bị cáo phù hợp về thời gian, sự chuẩn bị công cụ, thứ tự đến tham gia đánh bạc, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được.
Về hình thức đánh bạc: Các bị cáo đều khai nhận là chơi Khi chơi sử dụng các quân bài từ Át(Một) đến 9 gồm 36 quân bài tú lơ khơ để chơi. Mỗi ván bài, người cầm cái gọi là “Chương”theo thứ tự sẽ chia cho mình và mỗi người chơi 03 lá bài. Sau đó cộng điểm của 03 lá bài lại, lấy số điểm hàng đơn vị so với “Chương”, ai cao điểm hơn là người thắng. Nếu số điểm bằng nhau thì so chất của các lá bài theo quy ước từ cao xuống thấp tính theo chất rô, cơ, tép, bích. Nếu ai được 10 điểm thì sẽ được làm “Chương” ở ván tiếp theo. Ngoài đánh với “Chương” thì những người chơi có thể tự so điểm bài của mình để đánh với nhau. Riêng đối với G và S thì dùng kết quả bài của B và C để đánh với “Chương”. Số tiền cá cược thấp nhất là 20.000 đồng, cao nhất tùy người chơi thỏa thuận với nhau. Về tỷ lệ ăn thua, nếu thua người chơi sẽ mất số tiền đã bỏ ra, nếu thắng “Chương” phải trả cho người chơi số tiền bằng với số tiền mà người chơi đã đặt cược.
Khi bắt đầu tham gia đánh bạc, bị cáo D có 700.000 đồng; bị cáo S có 530.000 đồng; bị cáo B có 950.000 đồng; bị cáo Q có 01 triệu đồng; bị cáo C có 935.000 đồng; bị cáo T có 800.000 đồng; bị cáo T có 500.000 đồng; Nguyễn Mạnh R có 1.210.000 đồng, đã bỏ ra 110.000 đồng để đánh bạc còn 1.100.000 đồng đúc trên người. Quá trình chơi diễn ra nhiều ván nên các bị cáo không nhớ chính xác số tiền được thua nhưng các bị cáo đều khẳng định số tiền trên chiếu bạc khi bị bắt quả tang là 5.470.000 đồng. Q, C, G đã chạy thoát. Q, C khai khi bỏ chạy không cầm theo tiền, còn G hiện nay vẫn đang bỏ trốn nên Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ làm rõ.
Ngày 07/10/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện S đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can đối với Tạ Văn T, Hà Văn T, Hà Văn D, Hà Văn S, Hà Văn B, Hà Văn Q, Đinh Công C, Hà Văn G về tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1, điều 321 Bộ luật hình sự.
Sau khi bị khởi tố bị can, ngày 21/10/2019 bị cáo Hà Văn Q, Đinh Công C đã đến Cơ quan điều tra đầu thú, khai nhận rõ hành vi phạm tội.
Đối với bị cáo Hà Văn G, quá trình bắt quả tang đã chạy trốn. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của các bị cáo khác, căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được đã làm rõ hành vi “Đánh bạc”của G. Xét thấy hành vi của bị cáo G không ảnh hưởng tới việc truy tố, xét xử đối với các bị cáo khác nên Cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã đối với G và tách vụ án, khi nào bắt được bị can G sẽ tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2020/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 321- Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố: Các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B, Hà Văn Q phạm tội Đánh bạc.
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm S khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B và Hà Văn Q, riêng bị cáo Q áp dụng thêm điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015
Xử phạt bị cáo Hà Văn T 09 (Chín) tháng tù được khấu trừ 20 ngày tạm giữ, tạm giam (Từ ngày 29/9/2019 đến ngày 18/10/2019), bị cáo còn phải chấp hành 08(Tám) tháng 10(Mười) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Xử phạt bị cáo Hà Văn B 09 (Chín) tháng tù được khấu trừ 20 ngày tạm giữ, tạm giam (Từ ngày 29/9/2019 đến ngày 18/10/2019), bị cáo còn phải chấp hành 08(Tám) tháng 10(Mười) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Xử phạt bị cáo Hà Văn Q 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Về hình phạt bổ sung:
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B.
Phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn Q 10.000.000đ(Mười triệu đồng)
Ngoài ra, bản án còn tuyên hình phạt đối với các bị cáo khác và về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 12/5/2020, bị cáo Hà Văn T, Hà Văn Q, Hà Văn B kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo Hà văn T và Hà Văn Q giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Văn T, Hà Văn Q, Hà Văn B. Giữ nguyên Quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2020/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn Q, Hà Văn B kháng cáo trong hạn luật định, được xem xét giải quyết.
Đối với bị cáo Hà Văn B, Tòa án đã tống đạt và niêm yết hợp lệ nhưng vắng mặt phiên tòa lần 2. Luật sư bào chữa cho các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn Q và Hà Văn B đều xin xét xử váng mặt. Vì vậy căn cứ điểm a, điểm c Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo Hà Văn B và Luật sư bào chữa cho các bị cáo.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố, không oan sai. Lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được cũng như lời khai của các bị cáo khác, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Do đó đủ căn cứ cho rằng:
Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 28/9/2019 tại nhà Hà Văn G ở xóm Xè 2, xã M, huyện S, tỉnh Phú Thọ các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B, Hà Văn Q, Tạ Văn T, Hà Văn D, Hà Văn S, Đinh Công C cùng với anh Hà Mạnh R đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh ba cây ăn tiền với tổng số tiền đánh bạc là 6.570.000 đồng. Hành vi đánh bạc của các bị cáo đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện S bắt quả tang, thu giữ đầy đủ vật chứng.
Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” cần xử lý nghiêm minh theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về nội dung kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ về hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
Đối với các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét cho hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đó là ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự nhưng các bị cáo đều có nhân thân xấu đã bị xét xử về tội “Đánh bạc” nhưng vẫn tiếp tục phạm tội.
Đối với bị cáo Hà Văn Q: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét cho hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đó là ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, bị cáo còn được xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đầu thú. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo có tiền sự bị xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội.
Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được cải tạo ngoài xã hội, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các bị cáo đã không cung cấp được thêm các tài liệu chứng cứ gì mới để bổ sung cho việc xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn Q và Hà Văn B về việc xin giảm nhẹ hình phạt và xin được cải tạo ngoài xã hội, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
[4] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị bác đơn kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm. Xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.
[5] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Hà Văn T và Hà Văn Q có bài bào chữa: Đối với bị cáo Hà Văn T và Hà Văn Q là người dân tộc thiểu số, bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Hà Văn Q được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ là Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo T và Q được hưởng mức án cải tạo tại địa phương để lao động giúp đỡ gia đình.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Hà Văn B có bài bào chữa: Bị cáo Hà Văn B là người dân tộc thiểu số, bị cáo B được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo B được hưởng mức án cải tạo tại địa phương để lao động giúp đỡ gia đình.
Xét thấy lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Hà Văn T và Hà Văn Q là không được chấp nhận; lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Hà Văn B là không được chấp nhận vì bị cáo B có nhân thân xấu, đã bị xét xử về tội “Đánh bạc” nên chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Kháng cáo của bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B, Hà Văn Q không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn Q và Hà Văn B. Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2020/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ.
[2] Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B.
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hà Văn Q.
Tuyên bố các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B, Hà Văn Q phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Hà Văn T 09 (Chín) tháng tù được khấu trừ 20 ngày tạm giữ, tạm giam (Từ ngày 29/9/2019 đến ngày 18/10/2019), bị cáo còn phải chấp hành 08(Tám) tháng 10(Mười) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Xử phạt bị cáo Hà Văn B 09 (Chín) tháng tù được khấu trừ 20 ngày tạm giữ, tạm giam (Từ ngày 29/9/2019 đến ngày 18/10/2019), bị cáo còn phải chấp hành 08(Tám) tháng 10(Mười) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Xử phạt bị cáo Hà Văn Q 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Về hình phạt bổ sung:
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B.
Phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn Q 10.000.000đ(Mười triệu đồng)
[3] Về án phí phúc thẩm: Áp dụng điểm b, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Hà Văn T, Hà Văn B, Hà Văn Q. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 69/2020/HS-PT ngày 13/08/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 69/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về