Bản án 69/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 về kiện đòi tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG- THÁP CHÀM, TỈNH N

BẢN ÁN 69/2020/DS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 346/TLST-DS ngày 10 tháng 12 năm 2019 về “kiện đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn G, sinh năm: 1974. Địa chỉ: Khu phố 6x, phường T, thành phố P, tỉnh N (có mặt).

- Bị đơn: Bà Phan Thị A, sinh năm: 1983. Địa chỉ: số nhà D, Phường K, Tp. P, tỉnh N (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn- ông Nguyễn G - trình bày:

Ngày 12 tháng 2 năm 2012, ông cho bà Phan Thị A vay số tiền 100.000.000 (một trăm triệu đồng). Thời hạn trả nợ là 30 tháng 02 năm 2013. Ngày 17 tháng 01 năm 2013, bà Phan Thị A tiếp tục vay số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu đồng). Tổng cộng hai lần vay là 150.000.000 đồng. Hai bên có viết giấy cho mượn tiền, bà A có ký tên. Ông đã nhiều lần yêu cầu bà A trả nợ nhưng bà A cứ khất lần, nay bà A vẫn chưa trả nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Buộc bà A trả cho ông nợ gốc 150.000.000 đồng.

- Buộc bà A trả cho ông số tiền lãi theo lãi suất 1,5%/ tháng. Cụ thể:

+ Đối với giấy mượn tiền ngày 12 tháng 12 năm 2012: 50.000.000 đồng x 83 tháng x 1,5%/tháng= 62.250.000 đồng.

+ Đối với giấy mượn tiền ngày 17 tháng 01 năm 2013: 100.000.000 đồng x 82 tháng x 1,5%/tháng = 123.000.000 đồng.

Từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 8 năm 2020 là 8 tháng x 1,5% x 150.000.000 đồng = 18.000.000 đồng.

Cộng lãi là 203.250.000 đồng.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn G thay đổi yêu cầu khởi kiện: ông khởi kiện yêu cầu bà Phan Thị A có nghiã vụ trả cho ông 150.000.000 đồng theo hai giấy mượn tiền ngày 12 tháng 12 năm 2012 và ngày 17 tháng 01 năm 2013. Ông không yêu cầu bà A có nghiã vụ trả lãi.

Bị đơn- Bà Phan Thị A- vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “kiện đòi tài sản”. Vụ án thuộc thẩm quyền giài quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm căn cứ vào khoản 2 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Tại phiên tòa bị đơn- Bà Phan Thị A- vắng mặt, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định cuả pháp luật dân sự, nên Hội đồng xét xử căn cứ điều 227, điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự để xét xử vắng mặt.

[3] Ông Nguyễn G cam đoan bà Phan Thị A đã tự tay viết và ký tên vào hai giấy mượn tiền ngày 12 tháng 12 năm 2012 và ngày 17 tháng 01 năm 2013. Giấy mượn nợ ngày 12 tháng 12 năm 2012 viết: “Tôi tên Phan Thị A sinh 1983, CMND 264220412 cấp ngày 17/8/2009. Hôm nay ngày 12/12/2012 tôi có mượn ông Nguyễn G số tiền 100.000.000 (một trăm triệu đồng) để sửa chữa nâng cấp quán. Đến ngày 30/02/2013 tôi hoàn trả số tiền 100.000.000 cho ông Nguyễn G. Nếu không đúng tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Giấy mượn tiền ngày 17 tháng 01 năm 2013 viết: “Tôi tên Phan Thị A sinh 1983, CMND 264220412 cấp ngày 18/11/2009. Tôi có mượn anh G số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu đồng) sẽ hoàn trả số tiền trên vào ngày 25/12/2012 (AL). Nếu sai hẹn tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Ông G trình bày đã giao đủ tiền cho bà A, tuy nhiên bà A không trả dù ông đã rất nhiều lần nhắc nhở. Hội đồng xét xử xét thấy Ông G đã cho bà A vay tiền từ năm 2012, bà A đã nhận tiền nhưng không trả nợ, quá trình Tòa án giải quyết bà A không tham gia tố tụng, nay Ông G khởi kiện yêu cầu bà Atrả 150.000.000 đồng theo hai giấy vay nợ nói trên. Căn cứ điều 256 Bộ luật Dân sự 2005, Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn G là có cơ sở và xét thấy nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn.

Về án phí Dân sự sơ thẩm: Do Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn nên bị đơn- bà Phan Thị A- có nghiã vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm: 150.000 000 đồng x 5%= 7.500.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào: Khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35, điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 256 Bộ luật Dân sự 2005; Nghị quyết 326 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn: Buộc bà Phan Thị A có nghiã vụ trả 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) cho ông Nguyễn G.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí: Bà Phan Thị A phải chịu 7.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.Trả lại cho ông Nguyễn G 8.381.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền số 0020508 ngày 09 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt nguyên đơn. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.” 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 về kiện đòi tài sản

Số hiệu:69/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về