Bản án 69/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2019/TLST- HS ngày 15/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Tăng Văn C - sinh ngày 16 tháng 11 năm 1989 tại huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn 6, xã V, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 02/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tăng Văn Q sinh năm 1967 và bà Vũ Thị T sinh năm 1967; có vợ là Đinh Thị H sinh năm 1976; chưa có con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: Tại Quyết định số 06/QĐ- TA, ngày 16/10/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” thời hạn 24 tháng. Tăng Văn C chưa chấp hành Quyết định.

Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

2. Đào Văn D - sinh ngày 22 tháng 12 năm 1982 tại huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Thôn 9, xã V, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn N sinh năm 1957 và bà Đinh Thị Th sinh năm 1961; có vợ là Trần Thị Tuyết N sinh năm 1987 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2006.

Tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân:

- Tại Quyết định số 19/QĐ- XPHC ngày 15/02/2008 bị Công an huyện Đoan Hùng xử phạt 300.000đ về hành vi đánh nhau.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/HS- ST ngày 16/10/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt tạm giam từ ngày 16/10/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

* Bị hại: Bà Quyền Thị Đ- sinh năm 1956 Trú tại: Thôn 1, xã V1, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn D1- sinh năm 1989 Trú tại: Thôn 3, xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

2. Bà Đinh Thị Th- sinh năm 1961 Trú tại: Thôn 9, xã V, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào các buổi tối ngày 07/7/2019 và 23/7/2019, Tăng Văn C sinh năm 1989 ở xã V, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ đã đột nhập vào khu vực chăn nuôi của bà Quyền Thị Đ sinh năm 1956 ở thôn 01, xã V1, huyện Đ trộm cắp dê, bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Lần trộm cắp thứ hai còn có Đào Văn D sinh năm 1982 cũng ở xã V tham gia. Cụ thể như sau:

Vụ 1: Khoảng 21 giờ ngày 07/7/2019, Tăng Văn C đi bộ từ nhà ở thôn 6, xã V, huyện Đ đến khu vực chuồng nuôi nhốt dê của nhà bà Quyền Thị Đ (cách nhà C khoảng 2- 3km). Thấy cửa chuồng không khóa, chỉ buộc bằng dây thừng, C dùng tay cởi dây buộc, vào trong trộm cắp 01 con dê đực màu vàng 06 tháng tuổi nặng khoảng 15 kg rồi lấy dây rừng mọc ở đồi cây buộc chân dê, bê về nhốt tại tầng âm của nhà mình. Đến khoảng 05 giờ sáng ngày 08/7/2019, C đi bộ đến nhà Đào Văn D hỏi mượn D chiếc xe mô tô nhãn hiệu Majesty màu đỏ biển kiểm soát 19K2 – 28xx (xe này của bà Đinh Thị Th sinh năm 1961 là mẹ D). Sau khi mượn được xe, C điều khiển xe quay lại nhà mình, chở con dê trộm cắp được mang đi bán cho anh Nguyễn Văn D1 sinh năm 1989 làm nghề mua bán và mổ dê thuê ở thôn 3, xã M, huyện Đ được 1.500.000đ. Số tiền này C đã chi tiêu hết.

Vụ 2: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23/7/2019, do trước đó nghe C nói chuyện nhà bà Đ nuôi dê nên D nảy sinh ý định trộm cắp, D gọi điện thoại rủ C cùng đi trộm cắp dê thì C đồng ý. D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 19K2 - 2830 đến đón C. Cả hai để xe mô tô ở chân đồi cây thuộc thôn 6, xã V rồi đi bộ đến khu vực chuồng nuôi nhốt dê của gia đình bà Đ. Thấy cửa chuồng khóa, C bẻ cong song sắt bờ rào gần cửa chuồng dê tạo thành lỗ hổng để D chui vào bắt trộm 01 con dê cái 18 tháng tuổi, nặng khoảng 25kg, bê qua lỗ hổng cho C đứng ngoài ôm. Sau đó cả hai lấy dây rừng buộc chân dê và nhặt 01 đoạn gậy gỗ dài khoảng 2m tại đồi cây khiêng con dê đến vị trí để xe mô tô. D ngồi sau xe ôm con dê, C điều khiển xe về nhà D và ngủ lại đó. Đến khoảng 06 giờ sáng ngày 24/7/2019, C dùng chiếc xe mô tô biển số 19K2 - 2830 mượn của D chở con dê đã trộm cắp đến bán cho anh D1 được 1.750.000đ. Số tiền này C chia cho D 700.000đ, còn lại chi tiêu hết.

Tại Cơ quan điều tra, Tăng Văn C và Đào Văn D đều thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp dê của gia đình bà Đ như nêu trên. Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe mô tô biển số 19K2 - 2830, xác định là vật chứng của vụ án.

Ngày 06/9/2019, tại Bản kết luận định giá tài sản số 112/KL- HĐ của Hội đồng định giá tài sản huyện Đoan Hùng xác định: “01 con dê đực loại 06 tháng tuổi, khối lượng 15 kg trị giá 2.250.000 đồng, 01 con dê cái 18 tháng tuổi, đã đẻ 02 lứa, khối lượng 25 kg trị giá 2.500.000 đồng”. Như vậy, tổng trị giá tài sản gia đình bà Quyền Thị Đ bị trộm cắp là 4.750.000 đồng (Bốn triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 69/CT- VKSĐH ngày 13/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng đã truy tố Tăng Văn C, Đào Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Tuyên bố: Các bị cáo: Tăng Văn C, Đào Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt Tăng Văn C từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt Đào Văn D từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam: 16/10/2019.

* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

* Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận các bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Trả lại cho bà Đinh Thị Th 01xe mô tô nhãn hiệu Majesty, biển kiểm soát 19K2- 2830.

* Về án phí: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung cáo trạng truy tố, không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt không tranh luận.

Kết thúc phần tranh luận, các bị cáo nói lời sau cùng, đều thừa nhận hành vi của mình là sai, xin Tòa xử phạt mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong vụ án này, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo: Tăng Văn C, Đào Văn D tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với lời khai của chính các bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận:

Khong 21 giờ ngày 07/7/2019, Tăng Văn C đã đột nhập vào khu vực chuồng nuôi dê của gia đình bà Quyền Thị Đ ở thôn 1, xã V1, lén lút chiếm đoạt 01 con dê đực nặng 15 kg, trị giá 2.250.000đ. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23/7/2019, với thủ đoạn tương tự, Tăng Văn C cùng Đào Văn D tiếp tục chiếm đoạt của gia đình bà Đ 01 con dê cái nặng 25 kg, trị giá 2.500.000đ.

[3] Hành vi của Tăng Văn C, Đào Văn D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“ Người nào trộm cắp tài sản của người khác có trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tại không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

[4] Hành vi trộm cắp của Tăng Văn C, Đào Văn D đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo đều là người nghiện ma túy. Tăng Văn C đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa chấp hành. Đào Văn D thực hiện hành vi phạm tội trong khi đang bị khởi tố, điều tra một vụ án hình sự khác, cũng về tội trộm cắp tài sản. Vì vậy cần áp dụng hình phạt tù đối với cả hai bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung tội phạm.

[5] Trong vụ án này, Tăng Văn C, Đào Văn D cùng nhau thực hiện 01 vụ trộm cắp, nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn, không phải phạm tội có tổ chức.

[6] Xét vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo:

Tăng Văn C một mình thực hiện 01 vụ trộm cắp và cùng D thực hiện 01 vụ, tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 4.750.000đ. Đào Văn D tham gia trộm cắp 01 vụ, vừa là người khởi xướng, vừa là người thực hành tích cực, trị giá tài sản chiếm đoạt là 2.500.000đ. Các bị cáo đều được áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo và tự nguyện bồi thường thiệt hại, quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tăng Văn C bị áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đào Văn D không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Cân nhắc các tình tiết của vụ án, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và nhân thân từng bị cáo, xét thấy hình phạt đối với C cần cao hơn D là phù hợp.

Đào Văn D đã bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2019/HS- ST, ngày 16/10/2019. Bản án đó đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án này nên chưa chấp hành án. Trong vụ án này Hội đồng xét xử không tổng hợp hình phạt của 02 bản án, vì không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 56 bộ luật hình sự. Theo quy định tại khoản 3 Điều 56 bộ luật hình sự, khi Bản án này có hiệu lực pháp luật, Chánh án Tòa án có thẩm quyền sẽ ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án.

[7] Anh Nguyễn Văn D1 mua của Tăng Văn C 02 con dê mà C, D trộm cắp được, nhưng anh D1 không biết đây là tài sản do người khác phạm tội mà có, nên cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự là đúng quy định của pháp luật.

[8] Các bị cáo sử dụng xe mô tô của bà Đinh Thị Th là mẹ đẻ bị cáo Đào Văn D làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Do bà Th không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[9] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét các bị cáo đều không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[10] Về xử lý vật chứng:

- 02 con dê là tài sản các bị cáo chiếm đoạt và các vật chứng khác gồm: dây, gậy dùng để buộc và khiêng dê đều không thu hồi được, nên Hội đồng xét xử không xử lý.

- 01 xe mô tô đang tạm giữ là tài sản hợp pháp của bà Đinh Thị Th, sẽ trả lại cho bà Th.

[11]Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Đào Văn D, Tăng Văn C đã bồi thường cho bị hại tổng trị giá tài sản trộm cắp là 4.750.000đ, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, cần xác nhận.

[12] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố: Các bị cáo: Tăng Văn C, Đào Văn D phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt Tăng Văn C 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự: Xử phạt Đào Văn D 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam: 16/10/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

* Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận: Tăng Văn C, Đào Văn D đã liên đới bồi thường xong cho bị hại là bà Quyền Thị Đ, tổng số tiền là 4.750.000đ (Bốn triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bà Đinh Thị Th 01 xe mô tô nhãn hiệu Majesty, biển kiểm soát 19K2- 2830 (đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng quản lý).

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo: Tăng Văn C, Đào Văn D mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về