Bản án 69/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2019/TLST-HS, ngày 16 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung Đ, sinh ngày 26 tháng 01 năm 1995, tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số A, đường N, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1967 và bà Phạm Thị G, sinh năm 1967; vợ: Chung sống như vợ chồng với Hứa Thị Bích H, sinh năm 1996 (chưa đăng ký kết hôn); con: Chưa có; tiền án: Không có; tiền sự: Ngày 13/4/2017 bị Công an thành phố Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hàng vi Tàng trữ trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền, bị cáo chưa chấp hành hình phạt; nhân thân: Là người nghiện ma túy; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 01/4/2019 đến ngày 26/4/2019 chuyển đến nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến nay, có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến: Anh Phan Văn T, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 00 phút ngày 01/4/2019 Tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn phối hợp với Công an xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1967, trú tại: Thôn K, xã B, huyện D, tỉnh Lạng Sơn. Quá trình khám xét chỗ ở của C có một nam thanh niên tên Nguyễn Trung Đ, sinh năm 1995, trú tại: Số A, đường N, phường T, thành phố L đang ở đó, qua kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải đang mặc của Đ có 01 túi nilon màu trắng kích thước 4 x 4cm, bên trong chứa 07 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng; thu giữ trong túi quần phía trước bên trái đang mặc của Đ có 01 túi nilon 4x4cm bên trong chứa 03 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia màu vàng, tổ công tác đã đưa Nguyễn Trung Đ cùng tang vật về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản kết luận giám định tạm thời số 83/KL-PC09 ngày 02/4/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng 03 viên nén màu hồng có trong túi nilon kích thước 4cmx4cm đều là chất ma túy ATS có khối lượng 0,385 gam.

Tại bản kết luận giám định số 138/KL-PC09 ngày 05/4/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng và 03 viên nén màu hồng có trong túi nilon kích thước 4cm x 4cm đều là chất ma túy Methamphetamin có tổng khối lượng 0,385 gam. Chất tinh thể màu trắng và 07 viên nén màu hồng có trong túi nilon kích thước 4cm x 4cm đều là chất ma túy Methamphetamin, có tổng khối lượng 1,231 gam.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Trung Đ khai nhận: Nguyễn Trung Đ là người nghiện ma túy nên thường mua ma túy về sử dụng. Khoảng 11h ngày 01/4/2019 Đ đến quán điện tử Thiên Thiên số E, đường N, phường T, thành phố L chơi thì gặp M, Đ hỏi M (anh có đây không) M ngầm hiểu là Đ muốn mua ma túy đá, ngựa. M bảo (lấy như nào) thì Đ trả lời “lấy cho em 10 viên ma túy ngựa và 500.000đ ma túy đá” rồi Đ đưa cho M số tiền 1.500.000đ. M cầm tiền đi vào phòng vệ sinh của quán điện tử một lúc rồi ra đưa cho Đ 01 túi nilon nhỏ màu trắng bên trong chứa 07 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá đựng chung với nhau. Thấy còn thiếu, Đ bảo M bảo tí nữa đưa thêm. Sau đó Đ cất gói ma túy vào trong túi quần đang mặc phía trước bên phải. M đi vào trong phòng máy của quán điện tử, khoảng 05 phút sau ra chỗ Đ đưa cho Đ 01 túi nilon bên trong có 03 viên ma túy tổng hợp và ít ma túy đá đựng chung với nhau. Lấy được ma túy Đ cất vào túi quần đang mặc phía trước bên trái rồi đi chơi điện tử. Đến khoảng 19 giờ ngày 01/4/2019 Đ đang ở nhà bố đẻ là Nguyễn Mạnh C thì bị Công an đến kiểm tra, khám xét và phát hiện trong túi quần đằng trước bên phải của Đ có 01 túi nilon chứa 07 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá và trong túi quần đằng trước bên trái có 01 túi nilon chứa 03 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá. Sau đó tổ công tác đã đưa Đ cùng tang vật về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản Cáo trạng số 63/CT-VKS, ngày 15/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung Đ tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi pham tội của mình như tại cơ quan điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viên kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Trung Đ từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì dán kín bên trong là phần mẫu vật phẩm ma túy hoàn lại sau giám định;

Trả lại cho bị cáo: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng đã qua sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình. Hồi 19 giờ 00 phút ngày 01/4/2019 tại Thôn K, xã B, huyện D, Tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn phối hợp với Công an xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Nguyễn Trung Đ có hành vi tàng trữ 10 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng trong 02 túi nilon kích thước 4cm x 4cm đều là chất ma túy Methamphetamin, có tổng khối lượng 1,616 gam. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Trung Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[2] Cáo trạng số 63/CT-VKS, ngày 15/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung Đ tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Trong quá trình điều tra, truy tố quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Đây là vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân là người nghiện ma túy nên hiểu được tác hại của ma túy đối với con người, cộng đồng và xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng do nghiện ma túy nên vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và đó cũng là nguyên nhân gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe, làm gương cho những người khác có ý định thực hiện hành vi phạm tội tương tự.

[5] Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt. Về nhân thân: bị cáo là người có nhân thân xấu vì là người nghiện ma túy, đang có tiền sự. Về tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung.

[7] Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo mua ma túy về để sử dụng cho bản thân, bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hàng vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho bản thân từ bỏ ma túy mà còn cố tình phạm tội, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời răn đe, làm gương cho những người khác có ý định thực hiện hành vi phạm tội tương tự. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

[9] Người đàn ông tên M là người bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn không đủ căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ.

[10] Đối với Nguyễn Mạnh C đã bị Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn bắt và bị xử lý ở vụ án khác.

[11] Vật chứng của vụ án đã được làm rõ: 01 túi nilon chứa 07 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá, 01 túi nilon chứa 03 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá thu giữ của bị cáo là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 chiếc điện thoại Nokia màu vàng là của bị cáo dùng để liên lạc không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[12] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 01 tháng 4 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì dán kín bên trong có 1,255 gam ma túy Methamphetamin phần mẫu vật phẩm ma túy hoàn lại sau giám định.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Trung Đ: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, đã qua sử dụng.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16 tháng 7 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Trung Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về