TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 63/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Trung N; sinh năm: 1983 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường A, Quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Trung H (chết) và bà: Tạ Thị V, sinh năm 1957; có vợ: Nguyễn Thị Thảo L và 02 con: lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2011;
Tiền án:
- Bản án số 429/2013/HSST ngày 19/9/2013 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo, Bản án số 255/2014/HSPT ngày 08/5/2014 Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Tp. Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm;
- Bản án số 24/2014/HSST ngày 06/3/2014 Tòa án nhân dân Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bản án số 182/2014/HSST ngày 03/9/2014 Tòa án nhân dân Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại Bản án số 24/2014/HSST ngày 06/3/2014 Tòa án nhân dân Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh và 01 năm 03 tháng tù tại Bản án số 255/2014/HSPT ngày 08/5/2014 Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Tp. Hồ Chí Minh. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 06 năm tù, bản án bị kháng nghị, Bản án số 975/HSPT ngày 29/12/2014 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên mức án đối với bị cáo, sửa về tình tiết tăng nặng và thu lợi bất chính đối với bị cáo, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/7/2017; Tiền sự: không; bị bắt, tạm giam: ngày 14/02/2019. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Chị Nguyễn Gia M, sinh năm 1995, nơi cư trú: tổ 16, ấp 3, xã C, huyện D, Tp. Hồ Chí Minh. Có mặt.
2. Chị Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1988, nơi cư trú: 395/49/14 Tân Thới H, phường E, Quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 00 ngày 14/02/2018 tại trước số 42 Ni Sư Huỳnh L, Phường G, quận H, Tổ tuần tra Công an quận Tân Bình tiến hành kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Trung N điều khiển xe máy hiệu Honda Winner biển số 59U2-033.40 chở Nguyễn Gia M. Qua kiểm tra, phát hiện trên xe máy của Nam có 01 bịch nylon bên trong có 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút, thu giữ bên trong túi xách hiệu Vascara màu đen của Nguyễn Gia M đang đeo trên người, bên trong có 01 gói nylon viền đỏ chứa chất tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5070 gam, loại Methamphetamine (Kết luận giám định số 571/KLGĐ-H ngày 18/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh).
Qua khám xét chổ ở của Nguyễn Trung N, Nguyễn Gia M tại địa chỉ nhà không số, ấp 3, tổ 16, xã C, huyện D, kết quả không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan vụ án.
Quá trình điều tra, Nguyễn Trung N khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 14/02/2019, Nam điều khiển xe máy hiệu Honda Winner biển số 59U2-033.40 chở bạn gái là Nguyễn Gia M từ nhà ở Quận F đến nhà bạn tên D tại số 187 Ni Sư Huỳnh L, Phường G, quận H, N nói với M vào chơi với bạn, còn N đi công việc. Sau đó, N chạy xe máy một mình đến Bến Bình Đ, Quận I gặp một người thanh niên không rõ lai lịch để mua 01 gói nylon viền đỏ chứa ma túy đá với giá 1.000.000 đồng với mục đích sử dụng. Sau khi mua ma túy xong, N cất giấu trong túi quần bên phải của N đang mặc và quay lại số nhà 187 Ni Sư Huỳnh L, Phường G, quận H đón M. Sau đó, N chở M đi ăn ở quán vỉa hè, không nhớ địa chỉ trên đường Tô Hiến T, Quận K, M có để túi xách hiệu Vascara màu đen trên ghế kế bên N. Do N không mang theo giấy tờ xe, sợ đi đường công an kiểm tra nên khi M đứng lên tìm nhân viên tính tiền thì N nảy sinh ý định lấy gói ma túy đá trong túi quần bên phải của N đang mặc bỏ vào túi xách của M và không nói cho M biết. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Nam điều khiển xe máy hiệu Honda Winner biển số 59U2-033.40 chở M đến trước số 42 Ni Sư Huỳnh L, Phường G, quận H thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang như trên. Nguyễn Trung N khai sử dụng ma túy từ giữa năm 2018 đến nay, mục đích cất giấu gói nylon viền đỏ chứa ma túy đá của Nam trong túi xách màu đen để mang về nhà sử dụng một mình, M không biết việc Nam đi mua ma túy và cất giấu ma túy trong túi xách của M, nam không sử dụng ma túy chung với M. Xét nghiệm Nguyễn Trung N dương tính với ma túy tổng hợp.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Nguyễn Trung N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đối tượng Nguyễn Gia M khai nhận không biết Nguyễn Trung N đi mua ma túy, không biết việc N đã cất giấu 01 gói nylon viền đỏ chứa ma túy đá bị thu giữ trong túi xách hiệu Vascara màu đen của M. Bản thân M có sử dụng ma túy được hơn một năm nay, nguồn ma túy là của bạn bè ngoài xã hội mang đến sử dụng ma túy với nhau ở khách sạn nhưng M không cho Nam biết và không sử dụng ma túy chung với N. Xét nghiệm Nguyễn Gia M dương tính với ma túy tổng hợp, M có nơi cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình giao cho Công an Phường G, quận H lập hồ sơ xử lý hành chính.
Đối với đối tượng bán ma túy, do Nguyễn Trung N khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có cơ sở làm rõ để xử lý.
Vật chứng thu giữ:
- 01 USB màu trắng xanh Kingston ghi nhận sự việc kiểm tra Nguyễn Trung N, Nguyễn Gia M và 01 đĩa DVD lưu trữ dữ liệu kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh đối với Nguyễn Trung N ngày 26/02/2019.
- 01 điện thoại di động Samsung màu đen Galaxy S6 thu giữ của Nguyễn Gia M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả lại cho Nguyễn Gia M.
- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc, ghi số 571 (ma túy còn lại sau giám định).
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu tím và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng thu giữ của Nguyễn Trung N, Nam khai mua dùng để liên lạc gia đình và không liên lạc mua ma túy; qua kiểm tra dữ liệu không có thông tin mua bán ma túy.
- 01 túi xách hiệu Vascara màu đen của Nguyễn Gia M mua sử dụng đựng đồ vật cá nhân.
- 01 túi xách có ghi chữ Jeep bên trong có một bình gas mini màu đen thu giữ của Nguyễn Trung N, N khai bình gas mini dùng để bơm gas hộp quẹt.
- 01 nỏ thủy tinh, một ống hút thu giữ của Nguyễn Trung N, Nam khai là dụng cụ để sử dụng ma túy.
- 01 xe máy hiệu Honda Winner biển số 59U2-033.40.
Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 15 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 04 năm đến 05 năm tù.
Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Trung N, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Trung N đã có hành vi cất giấu 1,5070 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 0,5 gam”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về vật chứng vụ án:
- 01 USB màu trắng xanh Kingston ghi nhận sự việc kiểm tra Nguyễn Trung N, Nguyễn Gia M và 01 đĩa DVD lưu trữ dữ liệu kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh đối với Nguyễn Trung N ngày 26/02/2019 là chứng cứ có thể lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án.
- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc, ghi số 571 (ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu tím, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng và 01 túi xách có ghi chữ Jeep thu giữ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
- 01 túi xách hiệu Vascara màu đen thu giữ của Nguyễn Gia M, xét thấy đây là tài sản cá nhân của chị M, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho chị M.
- 01 bình gas mini màu đen, 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút thu giữ của bị cáo là những vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.
- 01 xe máy hiệu Honda Winner biển số 59U2-033.40, thu giữ của bị cáo. Qua xác minh, chủ sở hữu xe là anh Nguyễn Quốc N1. Anh N1 khai đã bán xe mấy trên cho chị Nguyễn Thị Thùy D với giá 30.000.000 đồng, chỉ làm giấy mua bán viết tay. Bị cáo khai xe máy trên là của em ruột Nguyễn Thị Thùy D. Chị D khai mua xe trên của anh N1 vào khoảng tháng 01/2019 với giá 30.000.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên sở hữu xe. Khoảng 17 giờ ngày 14/02/2019, bị cáo mượn xe máy của chị đi công việc, chị D không biết việc bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy. Chị D có yêu cầu nhận lại xe. Hội đồng xét xử xét thấy chị D là chủ sở hữu hợp pháp của xe máy trên, yêu cầu nhận là xe của chị D là có cơ sở nên chấp nhận, trả lại cho chị D 01 xe máy hiệu Honda Winner biển số 59U2-033.40.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
Căn cứ khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
[1] Tuyên bố bị Nguyễn Trung N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo : Nguyễn Trung N 03 (ba) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 14/02/2019.
[2] Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án: 01 USB màu trắng xanh Kingston ghi nhận sự việc kiểm tra Nguyễn Trung N, Nguyễn Gia M và 01 đĩa DVD lưu trữ dữ liệu kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh đối với Nguyễn Trung N ngày 26/02/2019.
Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc, ghi số 571 (tang vật ma túy còn lại sau giám định), 01 bình gas mini màu đen, 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút.
Trả lại cho chị Nguyễn Gia M 01 túi xách màu đen có chữ Vascara.
Trả lại cho chị Nguyễn Thị Thùy D 01 xe máy hiệu Honda Winner biển số 59U2-033.40, số khung RLHKC2603GY061809, số máy KC26E1097991.
Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu tím; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng, số imeil: 351867/01/185031/7 và 01 túi màu đen có ghi chữ Jeep.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 91/PNK ngày 25/4/2019 của Công an quận Tân Bình).
[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh.
Bản án 69/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 69/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về