Bản án 69/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Minh T, sinh năm 196X tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 5/23/312 T, phường H, Quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 1/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình C (đã chết) và bà Đỗ Thị V; có vợ là L (đã ly hôn) và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 05/HSST ngày 05/01/1980, Tòa án nhân dân Quận L, thành phố H xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản riêng của công dân”; tại bản án 47/HSST ngày 14/4/1982, Tòa án nhân dân Quận N, thành phố H xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản riêng của công dân”; tại bản án 145/HSST ngày 12/11/1983, Tòa án nhân dân Quận L, thành phố H xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản riêng của công dân”; tại bản án 352/HSST ngày 22/10/1992, Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; tại bản án 21/HSST ngày 30/3/1998, Tòa án nhân dân quận N, thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (đều đã xóa án tích); bị tạm giữ ngày 24/8/2018; tạm giam ngày 25/8/2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ ngày 24/8/2018, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận L làm nhiệm vụ tại khu vực đầu ngõ H, Quận L, Hải Phòng phát hiện Phạm Minh T có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy nên đã tiến Hnh kiểm tra. Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của T 01 vỏ bao thuốc lá "555" bên trong có 01 gói nilon đựng 02 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của T 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 16N1 - 6094, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel và số tiền 1.800.000 đồng. Tổ công tác đã dẫn giải T cùng vật chứng về trụ sở Công an Quận Lê Chân lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 468/KLGĐ(Đ6) ngày 27/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Minh T là ma túy, có khối lượng 6,2369 gam, là loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Minh T khai: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 11 giờ ngày 24/8/2018, T gọi điện thoại cho một nữ giới tên là H hỏi mua 7.000.000 đồng ma túy để sử dụng. H đồng ý và hẹn T đến khu vực công viên tại số 125 N, Quận L, Hải Phòng để mua bán ma túy. T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 16N1 - 6094 đi đến địa điểm này, gặp và đưa cho H số tiền 7.000.000 đồng. H nhận tiền, đưa cho T 01 vỏ bao thuốc lá "555" và nói đây là 1,5 chỉ ma túy. T cất số ma túy mua được vào túi quần phía trước bên trái và điều khiển xe đi đến khu vực đầu ngõ H thì bị bị lực lượng Công an bắt giữ cùng vật chứng. Theo T được biết nữ giới bán ma túy cho T tên là H hoặc T, nhà ở khu vực ngõ 346 T, có chồng tên là C. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel và số tiền 1.800.000 đồng là tài sản của T.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân tiến hành cho T nhận dạng người bán ma túy cho T vào ngày 24/8/2018 kết quả xác định là Đoàn Thị T, sinh năm 197Y; ĐKNKTT: Số 84/265 Đ, phường C, Quận N, H; chỗ ở: Số 31/37/346 T, phường H, Quận L, H.

Trên cơ sở lời khai của T, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh đối tượng nghi bán ma túy cho T là Đoàn Thị T. Tại Cơ quan điều tra, Đoàn Thị T khai: T không quen biết hay có quan hệ gì với T. T không bán ma túy cho T hoặc ai khác.

Bản Cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 10/4/2019, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Minh T mức án từ 06 đến 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá “555”; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel; trả lại cho bị cáo số tiền 1.800.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện là đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, báo cáo bắt giữ của lực lượng công an, kết luận giám định, vật chứng thu giữ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện: Hồi 12 giờ ngày 24/8/2018, tại khu vực đầu ngõ H, Quận L, Hải Phòng, Phạm Minh T có hành vi cất giữ trái phép 6,2369 gam chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân nên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hnh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an xã hội.

- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Về nhân thân: Bị cáo có 05 tiền án mặc dù đều đã được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, không chịu lao động cải tạo thành người có ích mà tiếp tục phạm tội nên cần phải xử lý nghiêm, bắt cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc thu nhập ổn định và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với số ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định đã được niêm phong trong phong bì thư. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với 01 vỏ bao thuốc lá “555” là vật không có giá trị nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[11] Đối với số tiền 1.800.000 đồng thu giữ của bị cáo xét không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi Hnh án.

[12] Đối với chiếc xe mô tô BKS: 16N1 - 6094, quá trình điều tra chưa làm rõ được nguồn gốc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục tạm giữ, làm rõ, xử lý sau nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[13] Theo lời khai của T, khoảng ngày 17/8/2018, T còn mua 01 gói Heroine cân nặng tương đương khoảng 0,5 chỉ với giá 2.500.000 đồng của T, ngoài lời khai của T hiện không còn tài liệu, chứng cứ nào khác, không đủ căn cứ để xử lý đối với T nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[14] Đối với Đoàn Thị T, ngoài lời khai của T về việc T chính là người bán ma túy cho T hiện không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không đủ căn cứ để xử lý đối với T. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tHnh phố Hải Phòng đã khởi tố đối với T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy trong một vụ án khác nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[15] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Minh T 07 (bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24 tháng 8 năm 2018.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá “555”.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.800.000 đồng thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án (Theo biên lai thu tiền số 0004342 ngày 10/4/2019 và biên bản giao, nhận tài sản vật chứng ngày 10/4/2019 giữa Công an Quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về