Bản án 69/2019/HS-PT ngày 10/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 69/2019/HS-PT NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 10 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 47/2019/TLPT-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án số 167/2018/HSST ngày 27/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1986; Giới tính: Nam; Cư trú: số 182/4A, khóm T.K 1, phường M.H, thành phố L.X, tỉnh A.G; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Lớp 5/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn T1, sinh năm 1965; Mẹ: Phùng Thị H, sinh năm 1964; Vợ: Dư Thị C, sinh năm 1989; Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2014.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo được cho tại ngoại đến nay.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Văn T: 

- Dư Thị C, sinh năm 1989 – Vợ bị cáo.

Nơi cư trú: số 182/4A, khóm T.K 1, phường M.H, thành phố L.X, tỉnh A.G; (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T:

- Bà Văng Thị Vân – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối năm 2013, vợ chồng Lưu Văn T2 và Nguyễn Thị Ngọc P xây dựng nhà tại khóm T.K 1, phường M.H, thành phố L.X, tỉnh A.G; , thì xảy ra tranh chấp ranh đất liền kề với gia đình ông, bà Nguyễn Văn T1, Phùng Thị H. Vụ việc tranh chấp đã đưa ra Ban nhân dân khóm Tây Khánh 2 và Uỷ ban nhân dân phường Mỹ Hòa giải quyết, hòa giải nhưng vẫn chưa triệt để. Giữa gia đình T2 và gia đình ông T1 thường xảy ra cự cãi, thách thức đánh nhau.

Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 29/9/2017, nghi ngờ gia đình ông T1 vứt rác qua nhà của T2 nên T2, P cự cãi, thách thức đánh nhau với ông T1, bà H. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Văn T là con của ông T1, bà H về nhà thấy T2 đứng trước nhà chửi, nên cầm miếng trét bê bằng kim loại kích thước 40 x 15cm, tay cầm bằng gỗ kích thước 02 x 03 x 40cm đánh T2 nhưng không trúng. T2 chạy vào nhà lấy 01 cục gạch thẻ ném trúng hông phải của T nhưng không gây thương tích, T cầm miếng trét bê lao vào đánh nhau với T2, T2 đưa tay trái lên đỡ nên bị thương ngón I, II bàn tay trái, T2 lấy ghế bằng kim loại đánh trả trúng T và bà H, nhưng không gây thương tích. T tiếp tục cầm miếng trét bê đánh nhau với T2, ông T1 cầm khúc gỗ tròn dài khoảng 70cm chạy đến thì T2 bỏ chạy vào nhà đóng cửa lại. Sau đó, T2 được người thân đưa đến Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang điều trị thương tích đến ngày 05/10/2017 ra viện. Ngày 04/10/2018, ông T1 đã nộp 3.000.000 đồng khắc phục hậu quả cho T (Biên lai số 0000102).

Ngày 02/10/2017, T2 có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự do bị Nguyễn Văn T đánh gây thương tích.

* Căn cứ Kết luận giám định về thương tích số 302/17/TgT ngày 03/11/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh An Giang, xác định: Lưu Văn T2, sinh năm 1988, bị sẹo mặt lòng ngón tay I bàn tay trái kích thước 02 x 0.1cm + 1.5 x 0.1cm, đứt gân gấp ngón I, đã phẫu thuật khâu gân gấp; Sẹo mặt lòng đốt I, ngón II bàn tay trái kích thước 0.8 x 0.1cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 07% (bảy phần trăm); Thương tích không gây cố tật.

* Căn cứ Kết luận giám định pháp y tâm thần số 113/18/KLGĐTC ngày 05/7/2018 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ, đối với Nguyễn Văn T, sinh năm 1986, xác định:

- Về y học: Trước, trong, sau khi phạm tội và hiện tại: Đương sự có bệnh lý tâm thần: Rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định (F60.3 - ICD10);

- Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 167/2018/HSST ngày 27/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, đã quyết định:

 Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T, phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, i, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585; Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại Lưu Văn T2 số tiền 16.915.600 đồng (Mười sáu triệu chín trăm mười lăm nghìn sáu trăm đồng).

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải có trách nhiệm bồi thường cho chị Nguyễn Thị Ngọc P số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn) tiền mất thu nhập.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/01/2019 bị cáo Nguyễn Văn T làm đơn kháng cáo với nội dung xin cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo, với lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, hiện đang nuôi 02 con nhỏ; bị cáo hiện đang điều trị bệnh tâm thần. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền bồi thường mà án sơ thẩm đã tuyên.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo. Sửa bản án sơ thẩm.

Trợ giúp viên pháp lý phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; là lao động chính trong gia đình; đang nuôi 02 con còn nhỏ; bị cáo đã khắc phục bồi thường xong cho người bị hại. Nhằm tạo điều kiện cho bị cáo ở ngoài trị bệnh và lo cho gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Nguyễn Văn T làm đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm, là có hành vi dùng miếng trét bê bằng kim loại đánh Lưu Văn T2, khi bị T2 ném cục gạch và cầm ghế bằng kim loại đánh mẹ của bị cáo làm cho T2 bị thương tích 07%. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Kết quả giám định pháp y về thương tích và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn T, về tội “Cố ý gây thương tích" theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo bị cáo thì thấy:

Bị cáo là người đã trưởng thành, mặc dù bị cáo có hạn chế một phần năng lực hành vi, nhưng bị cáo cũng phải nhận thức được việc dùng hung khí nguy hiểm tác động vào cơ thể người khác có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Lẽ ra, khi thấy cha mẹ có xảy ra việc cự cãi với T2, bị cáo phải biết kiềm chế bản thân hoặc chọn cách cư xử phù hợp hơn thì hậu quả đáng tiếc sẽ không xảy ra. Nhưng không làm được điều đó, mà chỉ vì bênh vực người thân, bị cáo đã dùng miếng trét bê bằng kim loại là loại hung khí nguy hiểm đánh vào tay người bị hại, hậu quả làm cho người bị hại bị thương tích với tỷ lệ thương tật 07% , bất chấp pháp luật, hậu quả xảy ra và cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người bị hại; gây mất an ninh trật tự tại địa phương, Do đó, cần có một mức án nghiêm T1 xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo răn đe và phòng ngừa chung.

Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tuyên phạt bị cáo 06 tháng tù là thỏa đáng. Lẽ ra, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; trong vụ án có phần lỗi của người bị hại; đã khắc phục một phần hậu quả; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có hai con còn nhỏ; hoàn cảnh gia đình khó khăn; là lao động làm thuê nuôi sống gia đình. Bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần; đang điều trị bệnh. Hơn nữa, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo tiếp tục khắc phục, bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, điều này chứng tỏ cho ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo; trong thời gian được tại ngoại cũng không vi phạm pháp luật gì mới và nhằm tạo điều kiện cho bị cáo trị bệnh được tốt hơn. Do đó, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có cân nhắc, để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; không buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình như Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về án phí: Bị cáo không chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T xin được hưởng án treo.

Sửa bản án sơ thẩm.

Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, i, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585; Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích”. Nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 01 năm tính từ ngày 10/4/2019.

Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân phường Mỹ Hòa, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đư ợc hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại Lưu Văn T2 số tiền 16.915.600 đồng (Mười sáu triệu chín trăm mười lăm nghìn sáu trăm đồng) và bồi thường cho chị Nguyễn Thị Ngọc P số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn) tiền mất thu nhập. Bị cáo đã bồi thường xong theo các Biên lai thu tiền số 0000102 ngày 04/10/2018; số 0000154 ngày 18/01/2019 và số 0000155 ngày 21/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HS-PT ngày 10/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:69/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về