Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị T với anh D

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BN ÁN 69/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ T VỚI ANH D

Ngày 29 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 200/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 257/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Thu T, sinh năm: 1991, địa chỉ: Số 1495, tổ NDTQ số 7A, ấp HA, xã ĐP, huyện M, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng D, sinh năm: 1988, địa chỉ: Ấp AV, xã ĐP, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa chị T có mặt, anh D vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 5 năm 2019, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Đặng Thị Thu T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Hoàng D tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã ĐP, huyện M, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới nhau, anh chị về sống bên gia đình chồng. Anh chị chung sống hạnh phúc được một khoảng thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, anh D không quan tâm chị và con, ham chơi không chịu làm việc để chăm lo cho gia đình, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh D vẫn không thay đổi. Chị và anh D không còn sống chung với nhau từ năm 2011 cho đến nay. Nhận thấy thời gian không sống chung với nhau đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn và không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin được ly hôn với anh D.

Trong thời gian chung sống, chị và anh D có 01 con chung tên Nguyễn Bảo N, sinh ngày 19 tháng 9 năm 2009. Chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con.

Chị và anh D không có tài sản chung, không có nợ chung.

Do bị đơn là anh Nguyễn Hoàng D vắng mặt tại các buổi hòa giải và phiên tòa nên không có trình bày.

Đi Dện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Kiểm sát viên trình bày ý kiến phát biểu về nội dung và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại Dện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Chị Đặng Thị Thu T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện M giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa chị với anh Nguyễn Hoàng D có địa chỉ tại ấp AV, xã ĐP, huyện M, tỉnh Bến Tre nên Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre thụ lý, giải quyết là phù hợp với quy định tại các điều 26, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Hoàng D là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Thu T và anh Nguyễn Hoàng D chung sống có đăng ký kết hôn năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã ĐP, huyện M, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân của chị T và anh D được xem là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, chị T cho rằng chị và anh D mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh D ham chơi không làm việc để chăm lo cho gia đình, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh D không thay đổi. Chị và anh D không còn sống chung với nhau từ năm 2011 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin ly hôn với anh D. Tòa án đã thông báo cho anh D đến để hòa giải, tìm biện pháp hàn gắn đoàn tụ nhưng anh D không đến.

Như vậy, cho thấy tình trạng hôn nhân của chị T và anh D đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T để giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

[3] Về con chung: Chị T và anh D có 01 con chung tên Nguyễn Bảo N, sinh ngày 19 tháng 9 năm 2009. Chị T yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con.

Hi đồng xét xử xét thấy, hiện tại cháu N còn nhỏ, là con gái, từ trước cho đến nay cháu sống cùng với chị T và cháu có nguyện vọng được tiếp tục sống với chị. Do đó, để đảm bảo tâm sinh lý của cháu được ổn định nên cần giao cháu N cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Đối với việc cấp dưỡng cho con do chị T không có yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T khai chị và anh D không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Thu T. Chị Đặng Thị Thu T được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng D.

Về con chung: Chị Đặng Thị Thu T và anh Nguyễn Hoàng D có một con chung tên Nguyễn Bảo N, sinh ngày 19 tháng 9 năm 2009.

Chị Đặng Thị Thu T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng Nguyễn Bảo N.

Ghi nhận chị Đặng Thị Thu T không yêu cầu anh Nguyễn Hoàng D cấp dưỡng cho con.

Anh Nguyễn Hoàng D được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở anh thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đặng Thị Thu T trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị Thu T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002541 ngày 20 tháng 5 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M. Chị Đặng Thị Thu T đã nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị T với anh D

Số hiệu:69/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về