Bản án 688/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 688/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 387/2020/TLST/HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 345/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đổng Thị G, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Ấp BM, xã BM, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, có đơn xin vắng mặt.

Bị đơn: Ông Lư Văn H, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Ấp BT, xã BT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 09 tháng 7 năm 2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Đổng Thị G trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông H kết hôn năm 2004, hôn nhân do mai mối, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thủy, hyện Châu Phú, tinh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 26 cấp ngày 02/3/2006. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh Nhều mâu thuẩn, không cùng quan điểm sống, thường hay cãi nhau, ông H không lo làm ăn, chỉ biết chơi bời, không phụ tiếp bà kiếm tiền để nuôi con, vợ chồng sống ly thân khoảng 07 năm, từ ngày ly thân bà và ông H không liên hệ hay qua lại với nhau, ông H cũng không đến thăm con chung. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không còn đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Lư Văn H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lư Thị Yến Nh, sinh năm 2006, hiện con chung đang sống với bà. Ly hôn bà G yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung Yến Nh, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn ông Lư Văn H đã được Tòa án thực hiện việc cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để bà thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, nhưng ông T vẫn vắng mặt không tham gia tố tụng và không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình nên không ghi nhận được ý kiến của ông.

Tại phiên tòa:

Bà Đổng Thị G có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Lư Văn H vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú phát biểu ý kiến:

+ Về thủ tục tố tụng: Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà G ly hôn ông H. Giao con chung Lư Thị Yến Nh cho bà G trực tiếp nuôi dưỡng, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà G không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Do bà G không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn, bị đơn ông H có địa chỉ cư trú tại ấp Vĩnh Phúc, thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Châu Phú có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn bà G có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đổng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà G và ông H tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thủy theo Giấy đăng ký kết hôn số 26 ngày 02/3/2006 là phù hợp quy định của pháp luật theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình 2014, nên hôn nhân giữa bà Thảo và ông Nhậu là hôn nhân hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Theo bà G trong thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh Nhều mâu thuẫn, đời sống chung không hòa hợp nên đã ly thân khoảng 07 năm nay. Từ ngày sống ly thân đến nay giữa bà G và ông H không còn liên lạc với nhau. Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhằm tạo điều kiện để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ với nhau nhưng ông H vắng mặt và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của ông cho Tòa án chứng tỏ ông không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ vợ chồng.

Qua xác minh, địa phương xác định ông H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Bình thới, xã Bình Thủy, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Nhưng mâu thuẩn vợ chồng giữa bà G và ông H thì địa phương không rõ. Hiện tại bà G không còn chung sống với ông H nữa.

Xét thấy, vợ chồng thì phải có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Nhưng giữa ông H và bà G không thực hiện được nghĩa vụ vợ chồng đối với nhau, ông bà đã sống ly thân khoảng 07 năm nay. Không còn qua lại thăm nom, chăm sóc nhau. Cho thấy tình trạng hôn nhân của ông bà đã mâu thuẩn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà G yêu cầu ly hôn ông H là có cơ sở chấp nhận, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà G.

[2.5] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lư Thị Yến Nh, sinh năm 2006, hiện con chung đang sống với bà G. Sau khi ly hôn bà G yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung, ông H không có ý kiến về việc trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con. Từ khi ly thân đến nay con chung Yến Nh đang sống ổn định cùng bà G. Đồng Thời, con chung Yến Nh cũng có nguyện vọng muốn được sống với mẹ, thấy rằng để ổn định tâm lý cũng như cuộc sống sinh hoạt, học tập của con chung. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Lư Thị Yến Nh cho bà G trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật theo Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà G không yêu cầu.

Bà G và gia đình không được cản trở ông H trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

[2.6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà G không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.7] Về án phí: Bà G phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đổng Thị G.

- Về hôn nhân: Bà Đổng Thị G được ly hôn ông Lư Văn H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 26 ngày 02 tháng 3 năm 2006 của Ủy ban nhân dân xã Bình Thủy, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang cấp cho ông Lư Văn H và bà Đổng Thị G không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Bà G và ông H có 01 con chung tên Lư Thị Yến Nh, sinh năm 2006, hiện con chung đang sống với bà G.

Giao con chung Lư Thị Yến Nh cho bà G trực tiếp nuôi dưỡng, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà G và gia đình không được cản trở ông H trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, khi có yêu cầu sẽ được giải quyết thành vụ án khác.

- Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Bà Đổng Thị G phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà bà G đã nộp theo biên lai thu số 0003529 ngày 21 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú.

- Về quyền kháng cáo: Bà Đổng Thị G và ông Lư Văn H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định t ại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 688/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:688/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về