Bản án 687/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa anh H với chị T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 687/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA ANH H VỚI CHỊ T

Ngày 24 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 688/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 339/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Thanh H, sinh năm 1985 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp Bình Thạnh, xã BC, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Bà Bùi Thị Thu T, sinh năm 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp Bình Phước, xã BC, huyện C, tỉnh An Giang.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 11 năm 2019 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn anh Phạm Thanh H trình bày:

1. Về hôn nhân: Vợ chồng tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BC, huyện C, tỉnh An Giang vào ngày 11/12/2006. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn chung sống lâu dài với nhau được nữa, vợ chồng ly thân 05 đến 06 năm. Nay tình cảm không còn xin được ly hôn.

2. Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Thanh Chiến, sinh ngày 05/01/2004 và Phạm Khánh Hưng, sinh ngày 30/3/2009, hiện hai cháu đang sống chung với chị T, anh H đồng ý để chị T được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung và anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đồng/tháng (02 cháu/4.000.000đồng/tháng) cho đến khi 02 cháu trưởng thành và có khả năng lao động.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.

B đơn ch ùi Th Thu T trình bày:

Về hôn nhân: Thống nhất lời trình bày của anh H về quá trình đi đến hôn nhân, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BC. Ban đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn, do anh H có quan hệ bất chính bên ngoài, không quan tâm đến vợ con. Chị khai nhận vợ chồng ly thân khoảng 02 năm. Nay chị T không đồng ý ly hôn, chị còn thương chồng thương con, mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nuôi dạy con.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Thanh Chiến, sinh ngày 05/01/2004 và Phạm Khánh Hưng, sinh ngày 30/3/2009, hiện hai cháu đang sống chung với chị T, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 3.000.000đồng/tháng (02 cháu/6.000.000đồng/tháng) cho đến khi 02 cháu thành niên và có khả năng lao động.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với chị T, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 3.000.000 đồng (02 cháu 6.000.000 đồng), thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 12 năm 2020 cho đến khi các con thành niên và có khả năng lao động. Chị T vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định.

Về nội dung: Đề nghị cho anh H ly hôn chị T, do anh chị ly thân đã lâu, cho thấy anh chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Thanh Chiến, sinh ngày 05/01/2004 và Phạm Khánh Hưng, sinh ngày 30/3/2009, hiện hai cháu đang sống chung với chị T. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Chiến, cháu Hưng. Xét thấy, hiện 02 cháu Chiến, Hưng đang do chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh H và chị T đều thống nhất giao 02 cháu Chiến, Hưng cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 cháu Chiến, Hưng cho chị T được tiếp tục, nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: Đề nghị chấp nhận theo sự tự nguyện của anh H cấp dưỡng nuôi mỗi cháu 3.000.000 đồng/tháng (02 cháu là 6.000.000 đồng).

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án: Các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể của các đương sự; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy khai sinh của cháu Chiến, cháu Hưng; Biên bản xác minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức: Tranh chấp của các đương sự là về ly hôn, về nuôi con chung, bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Anh H và chị T chung sống với nhau từ năm 2003 đến năm 2006 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BC, huyện C, tỉnh An Giang, phù hợp quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, là hôn nhân hợp pháp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân. Anh H khởi kiện yêu cầu được ly hôn chị T với lý do: Anh và chị có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng đã ly thân khoảng 5, 6 năm. Chị T không đồng ý ly hôn vì cho rằng vợ chồng ly thân chỉ 2, 3 năm chứ không pH 5, 6 năm như anh H trình bày, anh H có quan hệ bất chính bên ngoài nên mới ly hôn, chị còn thương chồng, thương con muốn đoàn tụ gia đình, xây dựng lại gia đình hạnh phúc.

Tòa án đã tiến hành hòa giải động viên để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh H vẫn giữ yêu cầu ly hôn, chị T giữ quan điểm không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy: Mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ gắn bó lâu dài và bền vững, vợ chồng phải thương yêu chăm sóc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, cùng chung tay nuôi dưỡng chăm sóc con chung, vợ chồng pH thương yêu, tôn trọng, đối xử lịch thiệp văn minh với nhau nhưng anh chị thường xuyên cãi vã, gây mất tình cảm vợ chồng, dẫn đến vợ chồng ly thân, mặc dù 02 bên có trình bày thời gian ly thân có khác nhau nhưng đều thể hiện thời gian ly thân là lâu (ít nhất cũng đã 02 năm). Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung T, sống chung với nhau, nhưng anh chị không sống chung, anh chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, nên anh H yêu cầu yêu cầu ly hôn là có cơ sở. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H.

[2.2] Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Thanh Chiến, sinh ngày 05/01/2004 và Phạm Khánh Hưng, sinh ngày 30/3/2009, hiện hai cháu đang sống chung với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Chiến, cháu Hưng. Anh H cũng đồng ý giao hai cháu Chiến, Hưng cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy đây là sự thỏa thuận tự nguyện của các anh chị, để đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của các con, tạo điều kiện cho các cháu được ổn định tinh thần, sinh sống và học tập, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Chiến, cháu Hưng cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật.

Anh Phạm Thanh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi mỗi cháu 3.000.000 đồng/tháng, hai cháu là 6.000.000 đồng. Tại phiên tòa anh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu tại phiên hòa giải của chị T, nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của anh H.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Anh Phạm Thanh H pH chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (về cấp dưỡng), được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006013 ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Anh H pH nộp thêm 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Phạm Thanh H. Anh Phạm Thanh H được ly hôn với chị Bùi Thị Thu T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Anh H và chị T có 02 con chung tên Phạm Thanh Chiến, sinh ngày 05/01/2004 và Phạm Khánh Hưng, sinh ngày 30/3/2009, hiện hai cháu đang sống chung với chị T.

2.2. Giao 02 con chung tên Phạm Thanh Chiến, sinh ngày 05/01/2004 và Phạm Khánh Hưng, sinh ngày 30/3/2009 cho chị Bùi Thị Thu T được tiếp tục nuôi dưỡng.

Anh Phạm Thanh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Phạm Thanh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi hai cháu Chiến, cháu Hưng mỗi cháu 3.000.000 đồng/tháng (02 cháu là 6.000.000 đồng) kể từ ngày 01/12/2020 cho đến khi các cháu thành niên và có khả năng lao động.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh Phạm Thanh H pH chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (về cấp dưỡng), được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006013 ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Anh H pH nộp thêm 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 687/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa anh H với chị T

Số hiệu:687/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về