Bản án 68/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 19 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2020/TLST-HS ngày 20/3/2020 Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2020/QĐXXST-HS ngày 27/4/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1988; Giới tính: Nam; HKTT: thôn X, xã M, huyện N, tỉnh Nam Định; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn V, sinh năm 1955 và bà: Vũ Thị P, sinh năm 1958; Vợ: Đỗ Thu E, sinh năm 1989; có 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 41 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận H.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 23/12/2019. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Vũ Xuân T, sinh năm 1994; Giới tính: Nam; HKTT: Khu 5, thị trấn P, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Vũ Xuân L, sinh năm 1971 và bà: Dương Thị D, sinh năm 1972; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 40 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận H.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 23/12/2019. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Dương Thế B, sinh năm 1987; Giới tính: Nam; HKTT: xóm A, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Dương Văn A (đã chết) và bà: Phạm Thị C, sinh năm 1967; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Danh chỉ bản số 44 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận H.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 23/12/2019. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Bùi Thức Đ, sinh năm 1988; Giới tính: Nam; HKTT: thôn 9, xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Bùi Thức U, sinh năm 1957 và bà: Trần Thị S, sinh năm 1960; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 152 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận H.

Tm giữ: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Đỗ Văn Q, sinh năm 1966; Giới tính: Nam; HKTT: xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Con ông: Đỗ Văn E (đã chết) và bà: Nguyễn Thị O, sinh năm 1940; Vợ: Nguyễn Thị X, sinh năm 1975; có 02 con (lớn nhất sinh năm:1994, nhỏ nhất sinh năm: 1997); Tiền án, tiền sự: không; Danh chỉ bản số 46 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận H.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 23/12/2019. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Đoàn Tuấn G, sinh năm 1991; Giới tính: Nam; HKTT: thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Nam Định; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Đoàn Xuân M, sinh năm 1960 và bà: Trần Thị Y, sinh năm 1959; Vợ: Lê Thị Hoài I, sinh năm 1991; có 2 con (lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 45 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận H.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 23/12/2019. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

7. Vũ Tiến N, sinh năm 1994; Giới tính: Nam; HKTT: thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Nam Định; Tôn giáo, đảng phải: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Vũ Thế Z (đã chết) và bà: Chung Thị Q, sinh năm 1968; Vợ: Bùi Khánh R, sinh năm 1999; có 01 con SN: 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 39 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận H.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2019 đến ngày 23/12/2019. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Văn Q, Vũ Tiến N, Đoàn Tuấn G, Dương Thế B, Vũ Xuân T, Bùi Thức Đ và Nguyễn Văn H đều là công nhân xây dựng của Công trường xây dựng X tại phường V, quận H. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 19/12/2019, sau khi ăn tối xong thì Q, B, T, Đ, Tuấn G, Tiến N cùng rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi “Liêng” tại phòng contener ở công trường (lán nghỉ của công nhân). Cách thức chơi cụ thể như sau: Bộ bài tú lơ khơ 52 quân được người chia bài chia cho mỗi người chơi 3 quân, trước khi lên bài mỗi người chơi phải bỏ ra cH 20.000 đồng (20.000đ) tiền gà. Sau khi lên bài, người chơi có quyền tố lần lượt theo thứ tự từ người chia bài đến hết vòng, số tiền tố tùy theo từ 10.000đ đến 100.000đ, ai không theo thì úp bài và bị mất số tiền đặt gà 20.000đ, ai theo thì được tố, khi hết vòng tố tố thì những người chơi còn lại ngửa bài ra để tính điểm phân định thắng thua. Cao nhất là sáp (3 quân bài chữ hoặc số), sáp át là to nhất sau đến 9,…2; tiếp đến là liêng (3 quân bài liên tiếp nhau như 2,3,4…) rồi ảnh (3 quân chữ J, K, Q…), cuối cùng là so điểm, 9 điểm là cao nhất, các quân 10, J, Q, K được tính là 0 điểm, người thắng sẽ được số tiền gà và số tiền theo tố. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Bùi Thức Đ bị thua hết tiền nghỉ không chơi nữa và đi về chỗ làm việc, lúc này Nguyễn Văn H vào thay vị trí của Đ. Tiếp đó, Vũ Xuân T bị thua nên nghỉ không chơi nữa. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi Q, B, Tiến N, Tuấn G và H đang chơi thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an quận H phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 bộ bài lơ khơ 52 quân và số tiền thu tại cH bạc là 19.070.000 đồng. Ngày 20/12/2019, Vũ Xuân T đầu thú tại Cơ quan điều tra Công an quận Hà Đông và tự giao nộp số tiền 2.010.000 đồng. Đến ngày 17/01/2010 Bùi Thức Đ cũng ra đầu thú tại Công an quận Hà Đông.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận việc sử dụng tiền để đánh bạc như sau:

Nguyễn Văn H sử dụng 13.400.000đ để đánh bạc, khi bị bắt còn 13.200.000đ (thua 200.000đ); Dương Thế B sử dụng 1.700.000đ để đánh bạc, khi bị bắt có 2.900.000đ (thắng 1.200.000đ); Bùi Thức Đ sử dụng 1.230.000đ để đánh bạc và bị thua hết; Đỗ Văn Q sử dụng 1.000.000đ để đánh bạc, khi bị bắt có 1.450.000đ (thắng 450.000đ); Vũ Tiến N sử dụng 1.000.000đ để đánh bạc, khi bị bắt còn 680.000đ (thua 320.000đ); Đoàn Tuấn G sử dụng 500.000đ để đánh bạc, khi bị bắt có 840.000đ (thắng 340.000đ); Vũ Xuân T sử dụng 2.250.000đ để đánh bạc, sau nghỉ không chơi nữa khi đó số tiền còn lại là 2.010.000đ (thua 240.000đ) đã nộp cho cơ quan điều tra khi ra đầu thú;

Ti Cáo trạng số 41/CT-VKS-HĐ ngày 19/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố các bị cáo: Nguyễn Văn H, Dương Thế B, Vũ Xuân T, Bùi Thức Đ, Đỗ Văn Q, Vũ Tiến N và Đoàn Tuấn G phạm tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa:

c bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt mức hình phạt nhẹ nhất cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đối với tất cả các bị cáo. Đề nghị Xử phạt: Nguyễn Văn H từ 25 triệu đồng đến 30 triệu đồng; Dương Thế B từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng; Vũ Xuân T từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng; Bùi Thức Đ từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng; Đỗ Văn Q từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng; Vũ Tiến N từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng; Đoàn Tuấn G từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định pháp luật; Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

n cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hoàn toàn đúng với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Trong khoảng thời gian từ 20 giờ 30 phút đến 22 giờ 30 phút ngày 19/12/2019, tại phòng contener (lán nghỉ công nhân) ở khu vực công trường xây dựng X, địa phận phường V, quận H, thành phố Hà Nội, các bị cáo Đỗ Văn Q, Vũ Tiến N, Đoàn Tuấn G, Dương Thế B và Nguyễn Văn H có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh “Liêng”, thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Hà Đông phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ là 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân và số tiền 19.070.000 đồng. Trước đó, còn có Bùi Thức Đ và Vũ Xuân T tham gia đánh bạc, tại thời điểm Đ và T nghỉ chơi thì số tiền đánh bạc đều trên 5.000.000 đồng. Tổng số tiền chứng minh các bị cáo sử dụng đánh bạc là 21.080.000 đồng.

[3]. Hành vi trên của các bị cáo là trái phép, đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố các bị cáo Đỗ Văn Q, Vũ Tiến N, Đoàn Tuấn G, Dương Thế B và Nguyễn Văn H, Bùi Thức Đ và Vũ Xuân T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn công cộng, gây mất ổn định tình hình trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

[4]. Đánh giá vai trò của từng bị cáo thì thấy: Vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, tất cả các bị cáo đều là người trực tiếp đánh bạc. Nguyễn Văn H là người tham gia đánh bạc với số tiền lớn nhất nên có vai trò cao nhất và phải chịu mức hình phạt cao hơn các bị cáo khác. Các bị cáo Đỗ Văn Q, Vũ Tiến N, Đoàn Tuấn G, Dương Thế B và Nguyễn Văn H, Bùi Thức Đ và Vũ Xuân T sử dụng số tiền đánh bạc ít hơn nên có vai trò thấp hơn. Xét thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng để giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù mà áp dụng hình phạt tiền theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

c bị cáo đều không có công ăn việc làm ổn định, hình phạt tiền là hình phạt chính nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân phương tiện phạm tội nay không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền thu tại chiếu bạc là 19.070.000 đồng các bị cáo dùng vào việc đánh bạc, cần tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

[6]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 32; Điều 35; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

n cứ vào các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Tuyên bố các Nguyễn Văn H, Dương Thế B, Vũ Xuân T, Bùi Thức Đ, Đỗ Văn Q, Vũ Tiến N và Đoàn Tuấn G phạm tội “Đánh bạc” 2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 30 (ba mươi) triệu đồng.

Xử phạt bị cáo Dương Thế B 25 (hai mươi lăm) triệu đồng. Xử phạt bị cáo Vũ Xuân T 25 (hai mươi lăm) triệu đồng. Xử phạt bị cáo Bùi Thức Đ 25 (hai mươi lăm) triệu đồng. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Q 25 (hai mươi lăm) triệu đồng.

Xử phạt bị cáo Vũ Tiến N 25 (hai mươi lăm) triệu đồng.

Xử phạt bị cáo Đoàn Tuấn G 25 (hai mươi lăm) triệu đồng.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân. (tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 31/3/2020 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội với Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội)

- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước số tiền 21.080.000 đồng. (hiện đang gửi trong tài khoản số 3949.0.1052739 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội tại Kho bạc Nhà nước Hà Đông, thành phố Hà Nội).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn H, Dương Thế B, Vũ Xuân T, Bùi Thức Đ, Đỗ Văn Q, Vũ Tiến N và Đoàn Tuấn G, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về