Bản án 68/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 05/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn H (tên gọi khác: Ngọng); sinh ngày 08/4/1995, tại Bình Phước; Nơi cư trú: (Hộ khẩu thường trú: Tổ X, Ấp Y, xã MĐ, huyện HQ, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở: 399/46/38/2A Quốc lộ z, Phường N, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: Lượm ve chai; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Thanh s và bà Lê Thị T; Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 27/06/2017, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định số 334/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 15 tháng, đến ngày 02/7/2018 chấp hành xong.

Nhân thân:

Ngày 11/11/2018, Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định số 426/QĐ-UBND đưa vào Cơ sở xã hội Thanh Thiếu Niên 2 để quản lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/02/2020 đến nay (có mặt).

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Bích D, sinh năm: 1972; Nơi cư trú: 3189/15 PTH, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 16/01/2020, Lê Văn H đi xe buýt từ bến xe Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh về khu vực Phường 7, Quận 8 để nhặt ve chai. Khi đi đến cầu Bà Tàng thì H xuống xe, rồi đi bộ dọc tuyến đường PTH. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, H đi ngang qua cơ sở gia công đồ gỗ của chị Nguyễn Thị Bích D (tại số 28A Khu dân cư MS, PTH - TQN, Phường B, Quận 8). H thấy không ai ừông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H dùng tay kéo vách tường bằng tôn chui vào bên trong xưởng, lấy trộm tài sản gồm 02 máy bo phây gỗ, 01 máy lọng, 01 máy khoan bê tông và 01 máy chà nhám, rồi tẩu thoát. Đến khoảng 12 giờ 40 phút cùng ngày, tại trước số 6 đường số 2 KDC Phú Lợi II, Phường 7, Quận 8, Tổ tuần tra Công an Phường 7, Quận 8 phát hiện H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, sau đó đưa H về trụ sở Công an Phường 7, Quận 8 để làm việc. Tại Công an phường, H khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 điều tra làm rõ.

Theo kết luận định giá ngày 05/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận các tài sản bị chiếm đoạt là 02 máy bo phây gỗ hiệu 3612BR MAKITA màu xanh dương; 01 máy lọng hiệu KIMMIE màu xanh lá; 01 máy khoan bê tông hiệu BOSCH màu xanh dương; 01 máy chà nhám hiệu B04540 hiệu MAKITA màu xanh dương, tổng giá trị là 8.400.000 đồng. Ngày 17/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Bích D.

Ngày 17/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam Lê Văn H để điều tra về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Tại Cơ quan điều tra, H đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt tài sản như đã nêu trên. Lời khai của Lê Văn H phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Tại bản Cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 22/4 /2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. về vật chứng thu giữ và trách nhiệm dân sự, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả tài sản cho bị hại và bị hại không có yêu cầu bồi thường đối với bị cáo nên không đề cập giải quyết.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào khoảng 09 giờ ngày 16/01/2020, tại số 28A Khu dân cư MS, PTH - TQN, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Lê Văn H có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chị Nguyễn Thị Bích D gồm: 02 máy bo phây gỗ, 01 máy lọng, 01 máy khoan bê tông và 01 máy chà nhám có tổng giá trị là 8.400.000 đồng.

[3] Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Trộm cắp tài sản” như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. ”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Lê Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về nhân thân, năm 2017 bị cáo H bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc. Ngày 11/11/2018, bị Ủy ban nhân dân Phường 14 Quận 8 ra quyết định số 426/QĐ-UBND đưa người nghiện vào cơ sở xã hội Thanh Thiếu Niên 2 để quản lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, do đó khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để có mức hình phạt phù hợp với nhân thân của bị cáo.

[6] Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả bị hại thuộc trường hợp “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[7] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng vụ án, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả các tài sản bị chiếm đoạt cho bị hại, đồng thời bị hại không ý kiến, yêu cầu gì liên quan đến việc tạm giữ, xử lý vật chứng nên không đề cập giải quyết.

[9] Về trách nhiệm dân sự, do bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Văn H01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2020.

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Lê Văn H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về