Bản án 68/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận 9, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 77/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2019/QĐXXST-HS ngày 05/7/2019, đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Trần Thanh B, sinh ngày 17/12/1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Hộ khẩu thường trú: phường P, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: lái xe; Con ông Trần Viết T và bà Nguyễn Thị Ngọc C, vợ: Nguyễn Thị Ngọc G, con: có 01 người con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt, giam, giữ từ ngày 04/3/2019. (Có mặt).

2/ Họ và tên: Vũ Thường Thiên P, sinh ngày 04/5/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Hộ khẩu thường trú: phường P, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: nhân viên; Con ông Vũ Thanh T và bà Phạm Thị Thái B, vợ: Nguyễn Thị Thuỳ T, con: có 01 người con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: ngày 23/9/2014, Toà án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “cố ý gây thương tích”. Bị cáo bị bắt, giam, giữ từ ngày 04/3/2019. (Có mặt)

Người bị hại:

1/ anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1990 (vắng mặt)

Địa chỉ: phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ anh Nguyễn Thành V, sinh năm 1998 (vắng mặt)

Địa chỉ: phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Với ý định trộm cắp tài sản, Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 04/3/2019, Vũ Thường Thiên P điện thoại rủ Trần Thanh B đi trộm cắp tài sản, B đồng ý và hẹn gặp P trước cổng trường Hoa Lưu. Sau khi gặp nhau, P điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Future biển số 59X1-358.95 chở B đi tìm tài sản sở hở để trộm cắp. Khi đến nhà trọ Đường 11, Khu phố 5, phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh, B nói P đứng ngoài cổng nhà trọ cảnh giới, B đi bộ vào trong, phát hiện xe gắn máy biển số hiệu Sirius 36B3-063.07 của anh Nguyễn Văn G dựng gần chân cầu thang không người trông coi, B lén lút dẫn xe ra ngoài cổng khởi động máy cùng P tẩu thoát. Đi được khoảng 15m thì bị lực lượng Công an phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh tuần tra phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên bắt giữ B và P cùng tang vật giao Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử lý. Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 9, Trần Thanh B và Vũ Thường Thiên P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Trong quá trình điều tra, Trần Thanh B còn khai nhận: Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 03/3/2019, B một mình đi bộ trên đoạn đường đi làm về, khi đi ngang nhà trọ Đường 11, Khu phố 5, phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện xe gắn máy hiệu Sirius biển số 70R2-0276 của anh Nguyễn Thành V dựng trước phòng trọ gần cửa ra vào, không người trông coi, B lén lút dẫn xe ra ngoài bứt dây công tắc nổ máy điều khiển xe đến khu vực ngã tư Ga, phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho một người đàn ông không xác định lai lịch được 3.000.000 đồng, B tiêu xài hết số tiền trên.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 62-2019/KL-ĐGTS ngày 19/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản, kết luận:

- xe gắn máy hiệu Sirius biển số 70R2-0276, giá trị còn lại 3.300.000 đồng (không thu hồi được).

- xe gắn máy hiệu Sirius biển số 36B3-063.07, giá trị còn lại 10.500.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- xe gắn máy hiệu Sirius biển số 70R2-0276, không thu hồi được.

- xe gắn máy hiệu Sirius biển số 36B3-063.07. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã trao trả cho anh Nguyễn Văn G.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2.01, 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA- 1032 thu của Vũ Thường Thiên P; 01 điện thoai di động hiệu Nokia RM.1172 thu của Trần Thanh B. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 9 đã nhập kho vật chứng.

Về dân sự: anh Nguyễn Văn G đã nhận lại tài sản nên không có nêu cầu gì. Anh Nguyễn Thành V yêu cầu bị cáo B bồi thường thiệt hại số tiền 3.500.000 đồng.

[2] Bản Cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 12/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 đã truy tố bị cáo Trần Thanh B và Vũ Thường Thiên P về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Thanh B và Vũ Thường Thiên P phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt mỗi bị cáo từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, buộc bị cáo B bồi thường cho anh Nguyễn Thành V số tiền 3.500.000 đồng, tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền do bị cáo B thu lợi bất chính từ việc bán chiếc xe chiếm đoạt của anh Nguyễn Thành V là 3.000.000 đồng, vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.

- Các bị cáo Trần Thanh B và Vũ Thường Thiên P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo không tranh luận, không bào chữa gì, các bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo B đồng ý bồi thường cho anh Nguyễn Thành V số tiền 3.500.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản sự việc, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được. Có căn cứ xác định các bị cáo Trần Thanh B và Vũ Thường Thiên P đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người bị hại là anh Nguyễn Văn Giám có giá trị 10.500.00 đồng. Riêng bị cáo B, ngoài lần cùng với bị cáo P thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Nguyễn Văn G, bị cáo còn chiếm đoạt tài sản của anh Nguyễn Thành V có trị giá là 3.300.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận các bị cáo Trần Thanh B và Vũ Thường Thiên P đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Các bị cáo phạm tội có tính cố ý chiếm đoạt cao, táo bạo, phạm tội có đồng phạm, trong đó bị cáo P là người rủ rê, giúp sức, chở đồng bọn đi tìm tài sản trộm cắp, đứng cảnh giới và giữ xe. Bị cáo B là người trực tiếp lấy trộm tài sản. Trong vụ án này, bị cáo B đã thực hiện 2 vụ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự 2015. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với hình phạt nghiêm, tương ứng với hành vi của từng bị cáo, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[3] Tuy nhiên, xét thấy một phần tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả cho người bị hại và các bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: xe gắn máy hiệu Sirius biển số 70R2-0276 do anh Nguyễn Thành V đứng tên sở hữu, không thu hồi được nên buộc bị cáo Trần Thanh B phải bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Thành V số tiền 3.500.000 đồng.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Xe gắn máy hiệu Sirius biển số 36B3-063.07 do bà Lê Thị T đứng tên chủ sở hữu, bà T là mẹ ruột của anh Nguyễn Văn G, bà T cho anh G để làm phương tiện đi làm. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 9 đã trả lại xe cho anh Nguyễn Văn G là đúng quy định.

- Xe gắn máy biển số 59X1-358.95 do anh Đặng Văn Q đứng tên chủ sở hữu, tháng 02/2019, anh Q bán lại cho anh Vũ Thanh T (cha Vũ Thường Thiên P). Ngày 03/4/2019, P mượn xe đi và sử dụng vào mục đích phạm tội, anh T không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã trao trả xe cho anh T là đúng quy định.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2.01, 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA- 1032 của Vũ Thường Thiên P; 01 điện thoai di động hiệu Nokia RM.1172 của Trần Thanh B. Đây là các phương tiện để các bị cáo liên lạc với nhau khi thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Số tiền 3.000.000 đồng bị cáo B có được là do phạm tội mà có nên tịch thu để nộp vào ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo B còn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017):

1.1 Tuyên bố bị cáo Vũ Thường Thiên P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.2 Xử phạt: Vũ Thường Thiên P 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/3/2019.

2. Căn cứ Điều 17; Điều 38; Điều 48; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) 

2.1 Tuyên bố bị cáo Trần Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2.2 Xử phạt: Trần Thanh B 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/3/2019 2.3 Buộc Trần Thanh B phải bồi thường cho anh Nguyễn Thành V số tiền 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng).

3. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia C2.01, 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA-1032; 01 điện thoai di động hiệu Nokia RM.1172. Theo lệnh nhập kho vật chứng số 43/19 ngày 14/5/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh;

- Tịch thu của Trần Thanh B số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

4. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc Vũ Thường Thiên P phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Thanh B phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án. Đối với trường hợp vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:68/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về