Bản án 68/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

ơng Quang H, sinh năm 1991 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn Q, xã N, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Quang T và bà Lê Thị X; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại bản án số 131/2013/HSST ngày 11/9/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng và Bản án số 120/2014/HSPT, ngày 24/3/2014 của Tòa án nhân dân tối cao xử phạt Dương Quang H 12 tháng tù giam tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (đã được xóa án tích); Tại bản án số 31/2019/HSST ngày 06/6/2019, Tòa án nhân dân huyện An Dương xử phạt 08 tháng tù giam tội "Đe dọa giết người" (ngày thực hiện tội phạm này là ngày 20/7/2018). Bị cáo bị tạm giam ngày 04/9/2019; có mặt.

- Bị hại:

+ Anh Lê Quang S, nơi cư trú: Thôn N, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn N, địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Dương Quang T; anh Dương Quang H1; anh Phạm Thành V; đều vắng mặt; bà Lê Thị X; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 30 phút, ngày 09/10/2018, anh Phạm Thành V, sinh năm 1993, trú tại thôn V, xã T, huyện An Dương, Hải Phòng rủ các anh Lê Quang S, sinh năm 1997 ở thôn N, xã An H; Nguyễn Văn N, sinh năm 1989, trú tại thôn V, xã T; Đỗ Văn H, sinh năm 1995, trú tại thôn V, xã T; Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1988 trú tại thôn D, xã T cùng đến nhà bà Bà X, sinh năm 1964 ở thôn Q, xã N, huyện A, Hải Phòng để đòi nợ. Đến nhà bà X, L và H đứng ngoài cổng chờ; còn V, S và N vào trong gặp bà X và chồng là Dương Quang T, sinh năm 1959 đang ngồi uống nước ở sân. Ông T hỏi V "có vay có nợ sao lại đá rau, đá cáy của bà ấy" (do trước đó, V có đến quán rau của bà X đòi khoản nợ bà X nợ V là 20.000.000đồng và đá rau, đá cáy của bà X nhưng chưa gây thiệt hại), V đứng dậy trả lời "ý ông làm sao". Cùng lúc này 02 con bà X là Dương Quang H1, sinh năm 1987 và Dương Quang H, sinh năm 1991 vừa đi về đến. Nghe thấy V nói như vậy, H cầm ấm pha chè bằng sứ trên bàn uống nước đập vào đầu Việt, làm ấm vỡ thành nhiều mảnh rơi xuống đất và văng ra xung quanh nhưng không để lại thương tích gì. Thấy một người trong nhóm của Việt lấy trong người ra 01 con dao nhọn thì bị ông T dùng ghế gấp Inox đánh vào tay làm rơi con dao xuống đất. Ông T vơ lấy chiếc gọng gà bằng sắt ở gần vị trí ông T ngồi ném về phía nhóm của V nhưng không trúng vào ai. Thấy nhóm V, N, S bỏ chạy, H lấy con dao nhọn trên bàn uống nước dài 20cm, cầm dao tay phải đuổi theo đâm về phía N trúng 01 nhát vào bắp tay phải của N. N bỏ chạy ra cổng thì H quay lại thấy S đang chạy ra theo, H cầm dao đâm 01 nhát vào đúi trái của S gây thương tích. V, N và S bỏ chạy ra cổng, V cùng L nhặt gạch ở lề đường ném vào trong nhà bà X rồi bỏ chạy. Sau đó cả nhóm đưa N, S đi điều trị tại Bệnh viện Việt Tiệp - Hải Phòng, cấp cứu điều trị.

Tại Bản kết luận pháp y về thương tích số 15/2019/TgT, ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Trung tâm pháp y Hải Phòng xác định:

"Nạn nhân Lê Quang S bị vết thương rách da cơ đùi trái (mắt trước giữa đùi trái có vết thương liền vết phẫu thuật mở rộng đã liệu sẹo xấu, dính, xẫm màu, hình ba cạnh có tổng chiều dài 6,5cm, rộng từ 0,2-0,6cm; vận động đùi trái được), đã được điều trị ổn định không ảnh hưởng chức năng.

Tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Lê Quang S do các thương tích trên gây nên là 08%.

Thương tích của anh S có đặc điểm là do vật sắc nhọn tác động trực tiếp theo hướng gần như vuông góc với bề mặt da nơi tổn thương gây nên".

Tại Bản kết luận pháp y về thương tích số 16/2019/TgT, ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Trung tâm pháp y Hải Phòng, xác định: "Nạn nhân Nguyễn Văn N bị 02 vết thương cánh tay phải, gồm: vết thương mặt trước ngoài cánh tay phải liền vết phẫu thuật mở rộng đã liền sẹo, xấu, lồi, dính, dài 08cm, rộng 0,3-0,5cm; vết thương liền vết phẫu thuật mặt sau trong cánh tay phải đã liền sẹo xấu, dính, lồi, dài 23cm, rộng 0,4-0,6cm; vận động và cảm giác tay phải tương đối bình thường, không có biểu hiện thiếu máu tay phải, gây rách da, đứt cơ, đứt động mạch cánh tay, rách bao thần kinh, đã được điều trị tương đối ổn định, còn để lại 02 sẹo lớn, xấu ảnh hưởng ít chức năng và không có biểu hiện thiếu máu tay phải.

Tỉ lệ phần trăm tổn thương có thể của Nguyễn Văn N do các thương tích trên gây nên là 19%.

Thương tích của anh N có đặc điểm là do vật sắc nhọn tác động trực tiếp theo hướng gần như vuông góc với bề mặt da nơi tổn thương gây nên".

Tại Cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 17 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Dương Quang H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Dương Quang H khai nhận như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai nhận thương tích của anh Nguyễn Văn N và Lê Quang S là do một mình bị cáo gây nên.

Bị hại Nguyễn Văn N và Lê Quang S tại phiên tòa vắng mặt nhưng lời khai có trong hồ sơ xác định bị cáo Dương Quang H là người đã dùng dao đâm gây thương tích cho anh Nhân và anh Sáng và yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho mỗi người tổng số tiền là 100.000.000đồng bao gồm chi phí điều trị tại bệnh viện, tiền công mất thu nhập do nằm viện, tiền công mất thu nhập cho người chăm sóc, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và tổn thất tinh thần.

Công bố lời khai của người làm chứng có nội dung như bị cáo khai nhận tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, lỗi của bị cáo, nêu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ, khoản 2 (điểm a khoản 1) Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 và Điều 56 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Dương Quang H từ 42 đến 48 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp với hình phạt 08 tháng tù của Bản án số 31/2019/HSST ngày 06/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện An Dương buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 50 đến 56 tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2019.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 590 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo Dương Quang H phải bồi thường cho bị hại các khoản bao gồm các khoản chi phí viện phí, tiền mất thu nhập cá nhân, tiền mất thu nhập của người chăm sóc, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, tiền bồi thường tổn thất tinh thần, cụ thể buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn N số tiền 59.407.481đồng và Lê Quang S số tiền 44.025.629đồng,

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy 05 viên gạch chỉ màu đỏ; 01 dao bằng kim loại đã han gỉ, cán có dán băng keo đỏ; một số mảnh vỡ bằng sứ màu trắng; 01 con dao kích thước dài 20cm, có cán bằng gỗ dài 10cm, lưỡi dao dài 10cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng, phù hợp với bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 15/2019/TgT ngày 19 tháng 02 năm 2019 (kết luận về thương tích của nạn nhân Lê Quang S) và bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 16/2019/TgT ngày 19 tháng 02 năm 2019 (kết luận về thương tích của nạn nhân Nguyễn Văn N) của Trung tâm pháp y Hải Phòng; phù hợp với sơ đồ hiện trường và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ xác định vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 09 tháng 10 năm 2018, bị cáo Dương Quang H đã có hành vi dùng dao đâm gây thương tích cho các anh Nguyễn Văn N và Lê Quang S tại nhà của H ở thôn Q, xã N, huyện A, thành phố Hải Phòng làm anh N và anh S bị thương. Hành vi của bị cáo đã phạm tội "Cố ý gây thương tích", vi phạm Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[3] Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã dùng dao đâm vào đùi trái của anh Lê Quang S gây tổn thương cơ thể của anh S là 08% và đâm vào cánh tay phải của anh Nguyễn Văn N gây tổn thương cơ thể của anh N là 19%. Theo quy định pháp luật dao được xác định là hung khí nguy hiểm, như vậy hành vi của bị cáo đã vi phạm điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Thương tích mà bị cáo gây ra cho anh Nguyễn Văn N làm giảm 19% sức khỏe và gây thương tích cho anh Lê Quang S với tỷ lệ thương tích là 08%. Như vậy, hành vi của bị cáo đã vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nguyên nhân phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến sức khoẻ của người bị hại, gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu ở địa phương, nhân thân bị cáo đã có 01 tiền án, tuy đã được xóa án tích song vẫn bị coi là có nhân thân xấu; do vậy phải xử phạt nghiêm cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về nguyên nhân phạm tội là do xuất phát từ mâu thuẫn trong việc cho vay mượn tiền giữa bà Bà X (mẹ của bị cáo Dương Quang H) và Phạm Thành V (bạn của bị hại Lê Quang S và Nguyễn Văn N), hai bên lời qua tiếng lại, xảy ra ẩu đả nên bị cáo đã dùng dao đâm gây thương tích cho anh N và anh S

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bố đẻ bị cáo được Chủ Tịch Nước tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng nhì; Bộ Quốc phòng tặng bằng khen vì có thành tích trong chiến đấu nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về các vấn đề khác:

[8] Về tổng hợp hình phạt: Tại bản án số 31/2019/HSST ngày 06/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện An Dương xử phạt bị cáo Dương Quang H 08 tháng tù về tội "Đe dọa giết người", bản án đã có hiệu lực pháp luật nên sau khi quyết định hình phạt của tội mới sẽ tổng hợp với hình phạt của bản án trước đó theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại là anh Nguyễn Văn N trình bày thu nhập thực tế hàng ngày của anh và người chăm sóc anh (chị Nguyễn Thị O là bạn gái của anh N) là 300.000đ/ngày/người, anh N đã nằm viện điều trị trong thời gian 17 ngày với tiền chi phí anh nằm viện điều trị là 26.407.481 đồng.

Bị hại Lê Quang S trình bày thu nhập thực tế hàng tháng của anh là 300.000đồng/ngày; người chăm sóc anh là ông Lê Quang Đ (chú của anh S) có thu nhập là 500.000đ/ngày. Anh S đã nằm viện điều trị trong thời gian 17 ngày và chi phí viện phí phải thanh toán là 7.628.629đồng (trong tổng viện phí phải thanh toán là 11.251.826đ; Quỹ BHYT đã thanh toán 3.623.196đ).

Đi với số tiền viện phí và tiền công của bản thân bị hại và tiền mất thu nhập của người chăm sóc trong thời gian các bị hại nằm viện, anh N và anh S yêu cầu bị cáo bồi thường đầy đủ. Ngoài ra, các bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe. Tổng cộng số tiền các bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường cho mỗi người là 100.000.000đồng.

Bị cáo Dương Quang H đề nghị Tòa án xem xét mức bồi thường dân sự cho các bị hại theo quy định của pháp luật.

[9] Căn cứ tài liệu điều trị thương tích của bị hại tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp và bảng kê chi phí khám bệnh, chữa bệnh nội trú bảo hiểm y tế thì tổng chi phí đợt điều trị của bị hại Nguyễn Văn N là 26.407.481đồng; chi phí điều trị của bị hại Lê Quang S là 7.628.629đồng có hóa đơn nên chấp nhận buộc bị cáo phải bồi thường đầy đủ tiền chi phí điều trị thương tích cho các bị hại Nhân và Sáng. Ngoài số tiền trên cần buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe là 50.000đ/ngày x 60 ngày = 3.000.000đồng

[10] Bị hại Nguyễn Văn N trình bày làm việc tại Công ty Cổ phần thương mại xây dựng H có mức thu nhập là 10.500.000đồng/tháng, tính thu nhập bình quân là 300.000đồng/ngày; bạn gái của bị hại (chị Nguyễn Thị O là người chăm sóc bị hại trong thời gian nằm viện) làm việc tại nhà hàng có mức thu nhập 300.000đồng/ngày. Bị hại Lê Quang S làm việc tại Công ty Cổ phần cơ khí B với mức thu nhập là 10.000.000đồng/tháng; tính bình quân là 300.000đồng/ngày; chú của bị hại là ông Lê Quang Đ (người chăm sóc bị hại trong thời gian nằm viện) là lái xe có mức thu nhập là 500.000đồng/ngày. Các bị hại đều yêu cầu bị cáo phải bồi thường ngày công của bị hại trong thời gian nghỉ việc điều trị là 02 tháng cùng với tiền công mất thu nhập của người chăm sóc, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe. Xét thấy, các bị hại bị thương tích phải nằm viện điều trị nên phải nghỉ làm là có thực nhưng thời gian nghỉ không đến 01 tháng, cân đối với thời gian điều trị phục hồi sức khỏe sau khi ra viện của các bị hại, HĐXX chấp nhận mức bồi thường mất thu nhập thực tế của các bị hại trong 01 tháng, cụ thể buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn N tiền mất thu nhập là 10.500.000đồng và Lê Quang S là 10.000.000đồng.

Đi với thu nhập của người chăm sóc các bị hại là 300.000đồng/ngày x17 ngày = 5.100.000đồng (đối với bị hại Nguyễn Văn N) và 500.000đồng/ngày x17 ngày = 8.500.000đồng (đối với bị hại Lê Quang S).

[11] Về bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần: Căn cứ thương tích thực tế mà bị cáo gây ra cho các bị hại, buộc bị cáo bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn N, Lê Quang S số tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 10 tháng lương cơ sở: 1.490.000đ x 10 tháng = 14.900.000đ.

[12] Như vậy, cần buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn N tổng số tiền là: 26.407.481đồng + 3.000.000đồng + 10.500.000đồng + 5.100.000đồng+ 14.900.000đồng = 59.407.481đồng.

Cần buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại Lê Quang S tổng số tiền là:

7.628.629đồng + 3.000.000đồng + 10.000.000đồng + 8.500.000đồng + 14.900.000đồng = 44.025.629đồng. [13] Về vật chứng của vụ án: 01 con dao kích thước dài 20cm, cán bằng gỗ dài 10cm, lưỡi dao dài 10cm là vật chứng vụ án nên tịch thu tiêu hủy. 05 viên gạch chỉ màu đỏ; 01 dao bằng kim loại đã han gỉ, cán có dán băng keo đỏ; một số mảnh vỡ bằng sứ màu trắng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[14] Đối với hành vi của Phạm Thành V có hành vi đá rau, đá cáy của bà X nhưng không gây thiệt hại và cùng Nguyễn Ngọc L có hành vi ném gạch vào nhà bà X nhưng không đủ căn cứ khởi tố. Cơ quan điều tra Chuyển công an huyện An Dương xử lý hành chính đối với V và L là có căn cứ.

[15] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 (điểm a khoản 1) Điều 134, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 56 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Dương Quang H 42 (bốn hai) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt 08 tháng tù tại Bản án số 31/2019/HS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 50 (năm mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/01/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 590 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn N tổng số tiền là 59.407.481đồng (Năm mươi chín triệu bốn trăm linh bảy nghìn bốn trăm tám mươi mốt đồng) và bồi thường cho bị hại Lê Quang S tổng số tiền là 44.025.629đồng (Bốn mươi bốn triệu không trăm hai mươi lăm nghìn sáu trăm hai mươi chín đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong khoản tiền bồi thường thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1, Điều 468, Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao kích thước dài 20cm, cán bằng gỗ dài 10cm, lưỡi dao dài 10cm; 05 viên gạch chỉ màu đỏ; 01 dao bằng kim loại đã han gỉ, cán có dán băng keo đỏ; một số mảnh vỡ bằng sứ màu trắng (Tình trạng đặc điểm vật chứng thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019 giữa Công an huyện An Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, khoản 3 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Dương Quang H phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.171.655(Năm triệu một trăm bảy mốt nghìn sáu trăm năm mươi lăm đồng) đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:68/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về