Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 68/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 07/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 69/2018/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T (Có mặt).

Cư trú tại: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thành L (Vắng mặt).

Cư trú tại: thôn T, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/12/2017, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Thành L đăng ký kết hôn vào năm 2016 tại UBND xã N. Quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, hay kình cãi do bất đồng quan điểm sống, ông L không có trách nhiệm với gia đình và không chịu đi làm chỉ lo ăn nhậu. Hơn nữa, bà đã về nhà mẹ đẻ ở xã N sống từ tháng 02/2017. Nay bà không còn tình cảm với ông L nên xin ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Hồng Q, sinh ngày: 29/6/2016. Nguyện vọng, bà xin nuôi con và không yêu cầu ông L cấp dưỡng.

Tài sản chung: Bà T không yêu cầu tòa giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Thành L đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng nhưng cố tình trốn tránh không có mặt nên không có bản tự khai và không tiến hành hòa giải được.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tại phiên tòa sơ thẩm:

+ Về chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân và nguyên đơn đã chấp hành đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, khi Thẩm phán có quyết định đưa vụ án ra xét xử là hơn 02 tháng nên đã vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Thành L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa nhận thấy có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với Ông Nguyễn Thành L.

Về con chung: Hiện nay, cháu Nguyễn Ngọc Hồng Q còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ, bà T có công việc làm và thu nhập ổn định nên giao cháu Q cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà T không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Thành L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.

[2] Về nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Thành L tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thị xã N đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, hay kình cãi do bất đồng quan điểm sống và ông L đã đuổi bà đi từ tháng 12/2016 nên đã bỏ về nhà cha mẹ bà tại thôn T, xã N từ đó cho đến nay. Bà và ông L không ai quan tâm tới ai và ông L cũng không còn liên lạc với mẹ con bà. Hơn nữa, ông L đã được Tòa án triệu tập nhưng vẫn cố tình không đến để tham gia phiên tòa, chứng tỏ ông L không có thiện chí muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình với bà T.

Hội đồng xét xử thấy rằng tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là phù hợp và thỏa đáng.

Về con chung: Bà T và ông L có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Hồng Q, sinh ngày: 29/6/2016. Nguyện vọng của bà T được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q. Hội đồng xét xử thấy rằng cháu Q hiện còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ nên giao cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là có căn cứ. Bà T không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con nên hội đồng không xem xét.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị T không yêu cầu tòa giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí HNGĐ sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 207; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết án phí và lệ phí Tòa án  của Ủy ban thường vụ Quốc hội 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, nộp,  quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị T được ly hôn ông Nguyễn Thành L.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Hồng Q, sinh ngày: 29/6/2016 cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà T không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

- Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị T không yêu cầu tòa giải quyết.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí HNGĐ sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2016/0003548 ngày 04/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà T đã nộp đủ án phí HNGĐ sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:68/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về