Bản án 68/2018/HNGĐST ngày 22/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 68/2018/HNGĐST NGÀY 22/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳ Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2018 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vi Thị Q. Sinh năm: 1996

Trú tại: Bản N, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An Tạm trú: Thôn L, xã H, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn Vắng mặt

- Bị đơn: Anh Lô Văn B. Sinh năm: 1993

Trú tại: Bản N, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An 

Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/9/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vi Thị Q trình bày: Chị Vi Thị Q và anh Lô Văn B kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định vào ngày 24 tháng 7 năm 2017 tại UBND xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn không tự giải quyết được, vợ chồng thường xuyên có hành vi cãi vã, đánh đập nhau nên từtháng 01 năm 2018 chị Q đã đưa con bỏ về sống tại nhà bố mẹ đẻ và hai người không còn quan tâm, chăm sóc gì nhau nữa. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, quan hệ vợ chồng không còn tình cảm và không còn hạnh phúc và nay đã sống ly thân. Vì vậy, chị Vi Thị Q làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Lô Văn B.

Về quan hệ con cái: Chị Vi Thị Q và anh Lô Văn B có 01 con chung là cháu Lô Đăng Kh, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2017. Nếu ly hôn thì chị Q xin nhận nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh B phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra, hai người không nhận nuôi con nuôi và không ai có con riêng.

Về tài sản: Theo chị Vi Thị Q trình bày thì chị và anh B không có tài sản chung, không vay của ai và cũng không cho ai vay tài sản gì. Nên chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản.

Sau khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải cho anh Lô Văn B, tuy nhiên anh B không có mặt tại Tòa án để tham gia giải quyết vụ án. Qua xác minh tại UBND xã C được biết, sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án, các Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải thì cán bộ UBND xã C không tống đạt được vì anh B không có mặt tại địa phương. Xác minh tại Ban công an xã C được biết, anh Lô Văn B có hộ khẩu thường trú tại bản N, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Hiện nay anh B không có mặt tại địa phương, không biết anh B đi đâu, làm gì và không làm thủ tục khai báo tạm vắng với chính quyền địa phương. Xác minh tại mẹ của anh B (Bà Vi Thị H) thì được biết, anh B và chị Q kết hôn với nhau từ năm 2017 và có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định tại UBND xã C, huyện Quỳ Châu. Sau khi kết hôn thì anh B - chị Q chung sống với bố mẹ của anh B tại bản N, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vào khoảng tháng 01/2018, chị Q đã đưa con về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại tỉnh Lạng Sơn và anh B cũng đã bỏ đi làm ăn xa từ đó cho đến nay. Hiện nay anh B đang làm gì và ở đâu thì gia đình cũng không nắm được địa chỉ cụ thể.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu đã tiến hành niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập phiên tòa theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn đã cố tình giấu địa chỉ và vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Cho chị Q được ly hôn với anh B, giao con chung cho chị Q nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh B. Áp dụng điều 147 BLTTDS, buộc chị Q phải chịu án phí DSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Tranh chấp giữa chị Vi Thị Q và anh Lô Văn B là “Ly hôn”. Vì vậy, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu theo quy định tại khoản 1 điều 28 và điểm a khoản 1 điều 35 BLTTDS.

[1.2] Về sự vắng mặt của các đương sự:

- Sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập phiên tòa thì chị Vi Thị Q đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy, đơn đề nghị của chị Q được lập theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 điều 227 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Q.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Lô Văn B không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án và cố tình giấu địa chỉ. Đây là lần thứ hai Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Xét thấy, bị đơn không có yêu cầu phản tố. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 3 điều 228 BLTTDS; điểm a khoản 2 điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh B.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ tình cảm: Hôn nhân giữa chị Vi Thị Q và anh Lô Văn B được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có đăng ký kết hôn phù hợp với quy định của pháp luật. Quá trình chung sống thì giữa hai người đã xảy ra mâu thuẫn, nay chị Q và anh B đã sống ly thân. Thấy rằng, hôn nhân của chị Q - anh B không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu của chị Q, cho chị Vi Thị Q được ly hôn với anh Lô Văn B, điều này là phù hợp với thực tế cuộc sống và cũng là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Quan hệ con cái: Con chung của chị Vi Thị Q và anh Lô Văn B là cháu Lô Đăng Kh hiện đang sinh sống cùng với chị Vi Thị Q. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các con chung, cần chấp nhận yêu cầu của chị Vi Thị Q về việc giao con chung cho chị Q chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lô Văn B.

 [2.3] Quan hệ tài sản: Chị Vi Thị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Vì vậy, nên miễn xét.

[3] Về án phí: Cần buộc chị Vi Thị Q phải chịu án phí DSST về ly hôn.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 2 Điều 227; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

1. Chấp nhận yêu cầu của chị Vi Thị Q. Cho chị Vi Thị Q được ly hôn với anh Lô Văn B.

2. Về con cái:

- Giao cháu Lô Đăng Kh, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2017 cho chị Vi Thị Q chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi trưởng thành

- Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Lô Văn B.

- Anh Lô Văn B có quyền đi lại, thăm nom và giáo dục con chung không ai được cản trở

3. Về án phí:

- Buộc chị Vi Thị Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0000810 ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu. Chị Q đã nộp đủ án phí DSST.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vi Thị Q và anh Lô Văn B có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HNGĐST ngày 22/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:68/2018/HNGĐST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về