TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 68/2018/DS-ST NGÀY 26/12/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỤI
Trong ngày 26/12/2018, tại phòng xử án thuộc trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 217/2018/TLST-DS về việc: “Tranh chấp Hợp đồng góp hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 203/2018/QĐXXST-DS ngày 08/10/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 119/2018/QĐST-DS, ngày 10/12/2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm 1955 (có mặt)
Địa chỉ: ấp L, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn: Bà Lữ Phi Y, sinh năm 1990 (vắng mặt)
Ông Trần Văn Q, sinh năm 1995 (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp L, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, qua xem xét lời khai và yêu cầu của các đương sự, qua xét hỏi trước tòa, nội dung vụ án được xác định như sau: Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2018, trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị N trình bày: Bà là tổ trưởng góp vốn xoay vòng (gọi là hụi) có nhiều người tham gia, trong đó vợ chồng bà Y và ông Q có tham gia 04 dây hụi (06 chưng). Sau khi hốt hụi bà Y và ông Q không đóng lại phần hụi chết của bà Y và ông Q, cụ thể như sau:
- Dây 1: Hụi tháng 500.000 đồng, khui ngày 10/02/2016, hụi mãn ngày 10/12/2017, có 24 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 01 chưng: đóng hụi sống được 01 lần số tiền 350.000 đồng, lần khui thứ 02 ngày 10/3/2016 bà Y và ông Q ra thăm 180.000 đồng, hốt được số tiền là 7.340.000 đồng.
Từ ngày 10/5/2017 đến ngày 10/12/2017, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 08 lần = 4.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q.
- Dây 2: Hụi tháng 1.000.000 đồng, khui ngày 20/02/2016, hụi mãn ngày 20/10/2017, có 22 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 01 chưng: đóng hụi sống được 06, lần khui thứ 07 ngày 20/7/2016 bà Y và ông Q ra thăm 365.000 đồng, hốt được số tiền là 14.890.000 đồng.
Từ ngày 20/6/2017 đến ngày 20/10/2017, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 05 lần = 5.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q.
- Dây 3: Hụi tháng 500.000 đồng, khui ngày 25/8/2016, hụi mãn ngày 25/6/2018, có 24 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 03 chưng:
+ Chưng 1 và 2: Bà Y và ông Q đóng hụi sống được 01 lần số tiền 350.000 đồng x 02 chưng = 700.000 đồng, Lần khui thứ 02 ngày 25/9/2016 bà Y và ông Q ra thăm với số tiền 186.000 đồng, hốt hết hai chưng được số tiền 7.208.000 đồng x 02 chưng = 14.416.000 đồng.
+ Chưng 3: Bà Y và ông Q đóng hụi sống được 03 lần số tiền 964.000 đồng, Lần khui thứ 04 ngày 25/11/2016 bà Y và ông Q ra thăm với số tiền 200.000 đồng, hốt được số tiền 7.300.000 đồng.
Từ ngày 25/5/2017 đến ngày 25/6/2018, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 14 lần x 03 chưng = 21.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q
- Dây 4: Hụi tháng 500.000 đồng, khui ngày 30/4/2017, hụi mãn ngày 30/3/2018, có 25 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 01 chưng: đóng hụi sống được 01 lần số tiền 350.000 đồng, lần khui thứ 02 ngày 30/5/2016 bà Y và ông Q ra thăm 180.000 đồng, hốt được số tiền là 7.660.000 đồng.
Từ ngày 30/6/2017 đến ngày 30/3/2018, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 10 lần = 5.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q.
Tổng số tiền 04 dây hụi (06 chưng) bà Y và ông Q thiếu bà N số tiền là: 35.000.000 đồng. Ngày 13/3/2018 bà Y và ông Q trả cho bà N số tiền 2.000.000 đồng, ngày 18/7/2018 bà Y và ông Q trả số tiền 1.000.000 đồng, số tiền 3.000.000 đồng này do ông Trần Văn S ( cha ruột ông Q đưa cho bà) còn nợ lại 32.000.000 đồng.
Nay bà Trần Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q trả cho bà số tiền hụi còn nợ là 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng).
Đối với bị đơn bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q: Từ khi Tòa án thụ lý giải quyết cho đến nay, bà Y và ông Q không tham gia tố tụng nên Tòa án không thể thu thập được lời khai và yêu cầu của bà Y và ông Q.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, quan hệ tranh chấp, thu thập chứng cứ. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Các bị đơn đều vắng mặt, chưa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Xét thấy dây hụi mà bà N khởi kiện ông Q và bà Y, ông Trần Văn S (là cha ruột của ông Q) có thông báo cho bà Y và ông Q việc bà N đã khởi kiện đến Tòa án, nhưng bà Y và ông Q không đến Tòa án để tham gia tố tụng theo qui định của pháp luật, ông S có đưa tiền cho bà N 3.000.000 đồng để trả nợ thay cho vợ chồng ông Q và bà Y, ông S có biết bà Y và ông Q có nợ tiền hụi của bà N, nhưng không biết số tiền là bao nhiêu.
Do bị đơn Y và Q không tham gia tố tụng nên Tòa án không lấy được lời khai và làm rõ vụ kiện vì vậy bà N yêu cầu bà Y và ông Q trả 32.000.000 đồng tiền hụi là có căn cứ.
Từ phân tích trên, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định áp dụng Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015, Nghị định 144/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường, chấp nhận theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn trả cho nguyên đơn 32.000.000 đồng tiền hụi.
Tại phiên tòa, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Xét thấy tại phiên tòa, bị đơn bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung vụ án:
Nguyên đơn bà Trần Thị N là tổ trưởng góp vốn xoay vòng (gọi là hụi), bà Y và ông Q hốt hụi xong không đóng lại hụi chết cho bà N, bà N phải đóng hụi thay cho bà Y và ông Q, cụ thể:
- Dây 1: Hụi tháng 500.000 đồng, khui ngày 10/02/2016, hụi mãn ngày 10/12/2017, có 24 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 01 chưng: đóng hụi sống được 01 lần số tiền 350.000 đồng, lần khui thứ 02 ngày 10/3/2016 bà Y và ông Q ra thăm 180.000 đồng, hốt được số tiền là 7.340.000 đồng.
Từ ngày 10/5/2017 đến ngày 10/12/2017, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 08 lần = 4.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q.
- Dây 2: Hụi tháng 1.000.000 đồng, khui ngày 20/02/2016, hụi mãn ngày 20/10/2017, có 22 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 01 chưng: đóng hụi sống được 06, lần khui thứ 07 ngày 20/7/2016 bà Y và ông Q ra thăm 365.000 đồng, hốt được số tiền là 14.890.000 đồng.
Từ ngày 20/6/2017 đến ngày 20/10/2017, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 05 lần = 5.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q.
- Dây 3: Hụi tháng 500.000 đồng, khui ngày 25/8/2016, hụi mãn ngày 25/6/2018, có 24 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 03 chưng:
+ Chưng 1 và 2: Bà Y và ông Q đóng hụi sống được 01 lần số tiền 350.000 đồng x 02 chưng = 700.000 đồng, Lần khui thứ 02 ngày 25/9/2016 bà Y và ông Q ra thăm với số tiền 186.000 đồng, hốt hết hai chưng được số tiền 7.208.000 đồng x 02 chưng = 14.416.000 đồng.
+ Chưng 3: Bà Y và ông Q đóng hụi sống được 03 lần số tiền 964.000 đồng, Lần khui thứ 04 ngày 25/11/2016 bà Y và ông Q ra thăm với số tiền 200.000 đồng, hốt được số tiền 7.300.000 đồng.
Từ ngày 25/5/2017 đến ngày 25/6/2018, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 14 lần x 03 chưng = 21.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q
- Dây 4: Hụi tháng 500.000 đồng, khui ngày 30/4/2017, hụi mãn ngày 30/3/2018, có 25 người tham gia, bà Y và ông Q tham gia 01 chưng: đóng hụi sống được 01 lần số tiền 350.000 đồng, lần khui thứ 02 ngày 30/5/2016 bà Y và ông Q ra thăm 180.000 đồng, hốt được số tiền là 7.660.000 đồng.
Từ ngày 30/6/2017 đến ngày 30/3/2018, bà Y và ông Q không đóng hụi chết 10 lần = 5.000.000 đồng. Bà N phải bỏ ra số tiền nêu trên để đóng cho các hụi viên khác thay cho bà Y và ông Q.
Tổng số tiền 04 dây hụi (06 chưng) bà Y và ông Q thiếu bà N số tiền là: 35.000.000 đồng. Ngày 13/3/2018 bà Y và ông Q trả cho bà N số tiền 2.000.000 đồng, ngày 18/7/2018 bà Y và ông Q trả số tiền 1.000.000 đồng (số tiền 3.000.000 đồng này do ông Trần Văn S ( cha ruột ông Q đưa cho bà N) còn nợ lại 32.000.000 đồng.
Nay bà Trần Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q trả cho bà số tiền hụi còn nợ là 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng).
Đối với bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q, Tòa án không thu thập được lời khai do bà Y và ông Q không tham gia tố tụng, mặc dù Tòa án đã niêm yết thủ tục tố tụng tại nhà bà Y và ông Q nhiều lần, bà Y và ông Q sau khi thiếu nợ đã bỏ địa phương đi làm thuê không để lại địa chỉ, nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ còn thiếu nhiều người tại địa phương (qua kết quả xác minh Trưởng ban nhân dân ấp L, xã K và ông Trần Văn S).
Theo biên bản xác minh người làm chứng ông Trần Văn S (là cha ruột của ông Trần Văn Q) cho rằng: Việc bà Y và ông Q nợ tiền hụi của bà N thì ông có biết, nhưng không biết bà Y và ông Q nợ của bà N tổng cộng bao nhiêu tiền. Ông có trả nợ thay cho bà Y và ông Q cho bà N được 02 lần: Ngày 13/3/2018 ông S trả cho bà N số tiền 2.000.000 đồng; ngày 18/7/2018 ông S trả cho bà N số tiền 1.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền 3.000.000 đồng. Nay ông đã lớn tuổi không làm ra tiền, vì vậy việc bà N khởi kiện yêu cầu bà Y và ông Q trả tiền thì để bà Y và ông Q tự lo trả nợ cho bà N.
Qua yêu cầu khởi kiện của bà N thì vợ chồng bà Y và ông Q tham gia hụi của bà N, bà Y và ông Q có biết việc bà N khởi kiện đến Tòa án, nhưng cố tình giấu địa chỉ, nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho bà N. Từ những nhận định trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị N là có căn cứ để chấp nhận, nên Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 471 Bộ luật dân sự, áp dụng Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường, buộc bà Y và ông Q có trách nhiệm liên đới trả cho bà N số tiền nợ hụi là 32.000.000 đồng.
[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguên đơn bà Trần Thị N, buộc ông Trần Văn Q và bà Lữ Phi Y trả cho bà N 32.000.000 đồng là có căn cứ nên được chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án:
Bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là (32.000.000 đồng) x 5% = 1.600.000 đồng.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các Điều 26, 35, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ.
- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, về án phí, lệ phí Tòa án năm 2016;
- Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
TUYÊN XỬ:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị N về việc yêu cầu bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q trả tiền nợ hụi là 32.000.000 đồng. Buộc bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Trần Thị N số tiền nợ hụi còn thiếu là 32.000.000 đồng.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bà Trần Thị N có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q còn phải trả lãi cho bà Trần Thị N theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 đối với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Án phí dân sự sơ thẩm là 1.600.000 đồng, bà Lữ Phi Y và ông Trần Văn Q phải liên đới chịu là 1.600.000 đồng. Bà Trần Thị N thuộc diện người cao tuổi nên không có nộp tiền tạm ứng án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt được tính từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, để Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a ,7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
Bản án 68/2018/DS-ST ngày 26/12/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi
Số hiệu: | 68/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về