Bản án 67/2020/HSST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ A, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 67/2020/HSST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/5/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐA, Thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 69/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Xuân H, sinh năm 1985 tại Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: T11, thị trấn ĐA, huyện ĐA, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Trần Ngọc T, sinh năm 1957 và bà Trần Thị B, sinh năm 1956; có vợ là Phạm Thu Q, sinh năm 1985; có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; Về nhân thân: theo trích lục tiền án, tiền sự số 2459742/PV06 ngày 26/02/2020 và lý lịch bị can thì:

- Bị cáo có 03 tiền sự đã được xóa: ngày 21/12/2007 Công an phường QA, quận TH, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 21/4/2009 Công an thị trấn ĐA, huyện ĐA, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 25/02/2012 Ủy ban nhân dân huyện ĐA ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng.

- Có 01 tiền án: tại bản số 101/2016/HSST ngày 20/5/2016, Tòa án nhân dân quận BTL, thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 26 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/02/2018 (chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện ĐA, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 10 phút ngày 02/02/2020, Tổ công tác của Tiểu Đoàn Cảnh sát cơ động 4 – PK02E – Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại tuyến đường Quốc lộ 3 thuộc T7, thị trấn ĐA, ĐA, Hà Nội phát hiện Trần Xuân H và Võ NH đứng ven đường gần khu vực siêu thị Ecomart có biểu hiện nghi vấn nên tiến hanh kiểm tra. Phát hiện dưới đất nơi bị cáo H đứng có 02 túi nilon màu trắng bên trong đều chứa cành lá cây khô màu nâu, H khai đó là ma túy Cần sa thảo mộc của H vừa vứt xuống. Tiếp tục kiểm tra phát hiện tại vị trí phía sau H đứng khoảng 01m có 01 túi nilon màu trắng và 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa tinh thể màu trắng, H và NH đều khai không phải của H và NH, không biết của ai. Tổ công tác đã đưa H và NH cùng tang vật về trụ sở để làm rõ.

Ngoài ra còn tạm giữ: của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng, số thuê bao: 0904003103; số tiền 900.000đồng, 01 căn cước công dân mang tên Trần Xuân H và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, không biển kiểm soát, số khung: 396898, số máy: 1264560.

Tạm giữ của Võ NH: 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Vsmart, màu xanh, số thuê bao1: 0914899236, số thuê bao 2: 0364363729, số tiền 400.000đồng và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead, màu vàng, biển kiểm soát: 29S6-105.15, số khung: 640943, số máy: 0645903.

Cơ quan điều tra dã tiến hành giám định số vật chứng, tại bản kết luận giám định số 1008/ KLGĐ- PC09 ngày 11/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - CA.TP. Hà Nội kết luận:

- Cành lá cây khô màu nâu bên trong 02 túi nilon đều là ma túy Cần sa, tổng khối lượng 3,400 gam - Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,110 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,200 gam.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Trần Xuân H khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 14 giờ ngày 02/02/2020 H một mình đi đến khu vực đường Âu Cơ, TH, Hà Nội gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy Cần sa với giá 100.000đồng. Sau khi mua được ma túy, H mang về nhà sử dụng hết một phần, phần còn lại H chia ra làm 02 túi nhỏ rồi cất giấu vào túi quần phía trước bên trái để sử dụng. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, H điều khiển xe máy đến khu vực đường quốc lộ 3 gần siêu thị Ecomart thuộc địa phận T7, thị trấn ĐA, ĐA, Hà Nội để lấy tiền của anh Võ NH nợ. Khi H đang nhận tiền của anh NH thì bị lực lượng Công an đến kiểm tra. Do sợ hãi nên H cầm 02 túi ma túy Cần sa trong túi quần phía trước bên trái vứt xuống đất. Mục đích H mua ma túy về sử dụng ngoài ra không còn mục đích nào khác.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Võ NH khai khi lực lượng Công an phát hiện thu giữ 02 túi nilon bên trong chứa cành lá cây khô màu nâu ở dưới đất tại vị trí H đứng là của H vừa vứt xuống. Còn đối với 01 túi nilon màu trắng và 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa tinh thể màu trắng thì cả NH và H đều không biết là của ai.

Kết quả điều tra xác định anh NH không liên quan đến hành vi phạm tội của H nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đề cập xử lý.

Đối với người bán ma túy cho H, do H khai không biết họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu vàng, BKS: 29S6 -10515, 01 chiếc điện thoại di động và số tiền 400.000đồng (tạm giữ của anh Võ NH), kết quả điều tra xác định: Chiếc điện thoại và số tiền 400.000đồng là tài sản hợp pháp của anh NH. Chiếc xe máy BKS: 29S6 -10515 không phải xe vật chứng và là tài sản hợp pháp của chị Phan Thị MT (vợ của anh NH) nên ngày 06/3/2020 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại số tài sản trên cho chủ sở hữu.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Hondas Wave màu trắng và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Trần Xuân H, kết quả điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị B, thẻ căn cước công dân là tài sản của H không phải vật chứng của vụ án nên ngày 09/3/2020 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe máy trên và 01 căn cước công dân mang tên Trần Xuân H cho bà B.

Tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKSĐA ngày 12/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐA đã Quyêt định truy tố bị cáo Trần Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại Phiên tòa:

Bị cáo Trần Xuân H khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện ĐA giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: bị cáo Trần Xuân H bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có 3,400 gam cần sa; 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,110 gam ma túy loại Methamphetamine, và 0,200 gam ma túy loại Methamphetamine. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng và 900.000 đồng là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi và tội danh của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 02/02/2020 tại khu vực đường Quốc lộ 3 gần siêu thị Ecomart thuộc địa phận T7, thị trấn ĐA, huyện ĐA, Thành phố Hà Nội, Trần Xuân H có hành vi tàng trữ trái phép 3,400 gam ma túy loại cần sa thì bị cơ quan công an phát hiện bắt giữ. Mặt khác, ngoài lần phạm tội này bị cáo có 01 tiền án: Ngày 20/5/2016, Tòa án nhân dân quận BTL, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/02/2018, chưa được xóa án tích.

Như vậy hành vi của bị cáo Trần Xuân H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;” [2] Hành vi Tàng trữ trái phép ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý và chất gây nghiện khác, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, mà còn làm gia tăng các tệ nạn về ma tuý và các loại tội phạm khác trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung, huyện ĐA nói riêng. Ma túy với một tác hại khôn lường do sức tàn phá của nó, chính vì vậy mà Nhà nước và cả cộng đồng xã hội ra sức đấu tranh, bài trừ. Bị cáo nhận thức được điều này, song do nghiện ma túy nên vẫn cố tình phạm tội. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung, nhằm hạn chế các loại tội phạm.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong khi có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: bị cáo ăn năn hối cải do vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[3] Về tiền án, tiền sự của bị cáo: Bị cáo có 03 tiền tiền sự nhưng đã được xóa và 01 tiền án chưa được xóa án tích, như vậy được coi là có nhân thân xấu.

[4] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung như mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị là thỏa đáng. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng, 900.000 đồng thu giữ của bị cáo cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[6] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra đã thu giữ: 01 phong bì niêm phong bên trong có 3,400 gam cần sa; 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,110 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,200 gam ma túy loại Methamphetamine cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện ĐA thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố và xét xử. Kết luận điều tra của công an ĐA, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐA và đề nghị hình phạt áp dụng với bị cáo là đúng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt: Bị cáo Trần Xuân H 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/02/2020.

* Căn cứ Điều 47, Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án xử:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có 3,400 gam cần sa; 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,110 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,200 gam ma túy loại Methamphetamine.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng và 900.000 đồng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/5/2020 giữa Công an huyện ĐA, Thành phố Hà Nội và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐA, Thành phố Hà Nội và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 13/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐA, Thành phố Hà Nội). Bị cáo Trần Xuân H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2020/HSST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về