TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 67/2020/HSST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 14 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 03 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 04 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Cao Thanh S - Tên gọi khác: Không;
- Sinh ngày: 28/4/1974, tại thành phố C, Quảng Ninh;
- Nơi ĐKHKTT & Chỗ ở hiện nay: Tổ 1, khu 2A, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh;
- Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Chức vụ: không;Trình độ học vấn: Lớp 05/12 - Họ tên bố: Cao Xuân H; Họ tên mẹ: Phạm Thị X;
-Vợ, con: chưa có;
- Tiền án, tiền sự: Không ;
- Nhân thân : + Ngày 10/11/1999 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 09 năm tù về tội „„Mua bán trái phép chất ma túy‟‟, đến tháng 02/2005 được đặc xá tha tù trước thời hạn.
+ Ngày 25/11/2009 đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện Vũ Oai – Hoành Bồ, đến ngày 17/8/2011 hoàn thành chương trình cai nghiện ma túy về địa phương.
- Bị cáo đầu thú ngày 14/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên toà.
2. Họ và tên: Đới Ngọc B - Tên gọi khác: Không;
- Sinh ngày: 02/5/1975, tại thành phố C, Quảng Ninh;
- Chỗ ở hiện nay: Tổ 1, khu D, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh;
- Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; tôn giáo không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ: không;Trình độ học vấn: Lớp 12/12;
- Họ tên bố: Đới Ngọc M; Họ tên mẹ: Mai Thị H - Vợ, con: chưa có;
- Tiền án, tiền sự : Không ;
- Nhân thân : + Năm 2008 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện Vũ Oai - Hoành Bồ, đến năm 2010 hoàn thành chương trình.
+ Năm 2012 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện Vũ Oai - Hoành Bồ, đến năm 2014 hoàn thành chương trình.
- Bị cáo bị bắt ngày 14/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên toà.
* Người làm chứng; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bùi Huy N - sinh năm 1983; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 8, khu L, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt *Người chứng kiến:
Ông Đặng Ngọc H – sinh năm 1957; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 3, khu 6, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt tại phiên Tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 07 giờ 35 phút ngày 14/11/2019, tại khu vực tổ 4, khu 7, phường Cẩm Thành, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, Công an thành phố C bắt quả tang Đới Ngọc B đang có hành vi bán trái phép ma túy cho Bùi Huy N.
Vật chứng thu giữ của B: thu trên tay pH số tiền 400.000 đồng; thu trong túi quần bên trái phía trước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen; thu trong túi quần bên pH phía sau 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ điều trị Methadol, 01 thẻ bảo hiểm y tế đều mang tên Đới Ngọc B và số tiền 500.000 đồng.
Vật chứng thu giữ của N: thu trên tay pH N 01 lọ nhựa màu trắng hình trụ tròn cao khoảng 08 cm, đường kính đáy 05 cm, bên trong có chứa chất lỏng màu hồng; thu trong túi áo khoác bên pH N đang mặc 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng; thu trong túi quần bên pH phía trước 80.000đồng;
01 xe máy Honda Airblade màu đỏ trắng đeo biển số 14U1- 096.63. (Bút lục số 58 - 59).
Kết luận giám định số 857/GĐMT ngày 18/11/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất lỏng màu hồng thu giữ của Bùi Huy N gửi giám định là ma túy, loại Methadone, thể tích: 47ml. (Hoàn lại Cơ quan CSĐT Công an thành phố C 38ml mẫu vật).Tiến hành trưng cầu giám định bổ sung hàm lượng chất ma túy thu giữ, Tại bản kết luận giám định số 7063/C09-TT2 ngày 29/11/2019 của Viện khoa học kỹ thuật hình sự Bộ Công an kết luận: Nồng độ Methadone trong mẫu gửi giám định là 2,5mg/ml. Với thể tích thu giữ ban đầu là 47 ml thì khối lượng chất ma túy trong mẫu là 0,1175gam. (Bút lục số 48, 54) Tại Cơ quan điều tra, Đới Ngọc B khai nhận: B nghiện ma túy heroin từ năm 2000. Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 13/11/2019, N gọi điện thoại hỏi mua Methadone do trước đó B đã mua Methadone của Cao Thanh S để sử dụng, nên B đồng ý bán cho N với giá 500.000 đồng/1 lọ. Sau đó, B gọi điện cho Cao Thanh S hỏi mua 01 lọ Methadone với giá 200.000 đồng, S đồng ý. Đến khoảng hơn 7 giờ ngày 14/11/2019, B gọi điện cho S hẹn lấy Methadone nhưng S chỉ lấy được nửa lọ, bán với giá 100.000 đồng. B gọi điện lại cho N báo chỉ lấy được nửa lọ với giá 300.000 đồng, N đồng ý. B hẹn N đến gần bưu điện C, khi gặp nhau N đưa cho B 500.000 đồng. B cầm tiền đi đến cây xăng Cẩm Trung để mua Methadone của S. Sau khi mua được ma túy, B quay lại chỗ bưu điện gặp N để đưa nửa lọ Methadone và số tiền thừa 200.000 đồng, thì bị Công an đến kiểm tra bắt giữ và thu giữ vật chứng như trên. Ngoài ra, trước đó vào ngày 10/11/2019, B mua 01 lọ nhựa đựng đầy Methadone với giá 200.000 đồng của S về sử dụng cho bản thân. Vì do từ tháng 5/2019, B dừng uống Methadone nên chưa được cấp lại thẻ điều trị Methadone. Thẻ dùng để uống Methadone thu giữ lúc bắt quả của B đã hết hạn. (Bút lục số 98 – 115) Đến hồi 12 giờ 05 phút ngày 14/11/2019, Cao Thanh S đến Cơ quan điều tra Công an thành phố C đầu thú về hành vi bán trái phép chất ma túy Methadone cho Đới Ngọc B. Vật chứng thu giữ của Cao Thanh S: 01 điện thoại di động OPPO vỏ màu đen; 01 thẻ điều trị Methadone, 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Cao Thanh S; 01 xe máy Yamaha Sirius màu S đen, mang BKS: 14U1-065.35. (Bút lục số 29) Cơ quan CSĐT Công an thành phố C đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Cao Thanh S tại tổ 1, khu 2, phường Cẩm Trung, thành phố C, không thu giữ đồ vật, tài liệu gì. (Bút lục số 38 – 39) Tại Cơ quan điều tra, Cao Thanh S khai nhận, nguồn gốc số Methadone bán cho B là do S đi uống Methadone tại Trung tâm y tế theo định kì. Khi uống, S ngậm trong mồm, không để cán bộ y tế biết, rồi khi đi ra ngoài nhổ phần Methadone đang ngậm trong mồm ra lọ để bán cho Đới Ngọc B. Lần đầu vào ngày 10/11/2019, S chỉ uống một ít nên số Methadone còn nhiều, bán cho B với giá 200.000 đồng/1 lọ. Lần thứ hai vào ngày 14/11/2019, S uống một nửa số Methadone nên khi nhổ ra chỉ còn được nửa lọ nên bán cho B với giá 100.000 đồng. (Bút lục số 133 - 148).
Tại phiên toà, bị cáo Cao Thanh S khai, ngày 10/11/2019 và ngày 14/11/2019 khi đi uống Methadone tại Trung tâm y tế thành phố C, bị cáo không uống hết mà ngậm lại trong mồm một phần, sau đó ra chỗ để xe nhổ vào 01 chiếc lọ đã chuẩn bị trước rồi bán lại cho Đới Ngọc B, hai lần bị cáo bán Methadone cho Đới Ngọc B giá là 300.000đồng, cả hai lần này đều do B gọi điện hỏi mua vào chiều ngày hôm trước. Bị cáo Đới Ngọc B khai ngày ngày 10/11/2019 bị cáo đã mua của Cao Thanh S 01 lọ Methadone với giá 200.000đồng và đã sử dụng hết, ngày 14/11/2020 bị cáo tiếp tục mua 01 lọ Methadone của Cao Thanh S với giá 100.000đồng rồi mang bán cho Bùi Huy N với giá 300.000đồng để lấy tiền lời là 200.000đồng thì bị phát hiện bắt quả tang.
Quá trình điều tra Bùi Huy N có lời khai xác nhận: khoảng 15 giờ 30 phút ngày 13/11/2019, N gọi điện thoại cho Đới Ngọc B hỏi mua Methadone, B đồng ý bán cho N với giá 500.000 đồng/1 lọ. Đến khoảng hơn 7 giờ ngày 14/11/2019, B gọi điện lại cho N báo chỉ lấy được nửa lọ với giá 300.000 đồng, N đồng ý. B hẹn N đến gần bưu điện C, khi gặp nhau N đưa cho B 500.000 đồng, sau đó một lúc B gặp N đưa lọ Methadone , thì bị Công an đến kiểm tra bắt giữ, N chưa nhận lại tiền thừa 200.000đồng từ B. ( BL 88-89).
Người chứng kiến là ông Đặng Ngọc H, quá trình điều tra có lời khai thể hiện nội dung: Hồi 07 giờ 35 phút ngày 14/11/2019, tại khu vực tổ 4, khu 7, phường Cẩm Thành, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, Công an thành phố C bắt giữ Đới Ngọc B và Bùi Huy N, khi đó trên tay N đang cầm 01 lọ nhựa bên trong chứa chất lỏng màu hồng N khai là ma tuý Methadol N vừa mua của Đới Ngọc B, ngoài ra cơ quan công an còn thu giữ một số tài sản, đồ vật khác của N và B như cáo trạng đề cập. (BL 69-71).
Tài liệu có trong hồ sơ vụ án: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 14/11/2019; Biên bản niêm phong tài liệu đồ vật bị tạm giữ thu giữ của Đới Ngọc B, của Bùi Huy N; Biên bản kiểm tra điện thoại thu giữ của B và N, Bản ảnh vật chứng thu giữ của B, của N (BL 58 - 68) đều có nội dung phù hợp nội dung lời khai của bị cáo B khai tại phiên toà, phù hợp lời khai của N đã khai tại cơ quan điều tra. Tài liệu thực nghiệm điều tra (BL 151 -161) đều có nội dung thống nhất, phù hợp lời khai của bị cáo Cao Thanh S.
Tại bản cáo trạng số 44CT- VKSCP ngày 03/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố Cao Thanh S về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, truy tố Đới Ngọc B về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội các bị cáo với đề nghị kết tội các bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Cao Thanh S từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/11/2019 Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đới Ngọc B từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/11/2019.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo; ngoài ra có quan điểm xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: truy thu của bị cáo S số tiền 300.000đồng là số tiền 02 lần bị cáo bán Methadone cho bị cáo B; tịch thu của bị cáo B số tiền 200.000đồng là tiền bị cáo thu lời từ việc bán ma tuý cho N; ngoài ra còn có quan điểm xử lý vật chứng là tài sản đồ vật khác thu giữ trong quá trình điều tra theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận với kết luận của đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Hồi đồng xét xử xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Cao Thanh S và Đới Ngọc B khai nhận ngày 10 và ngày 14 tháng 11 năm 2019 Cao Thanh S đã bán Methadone cho Đới Ngọc B hai lần với tổng số tiền là 300.000đồng. Đới Ngọc B khai nhận số Methadone B mua của S ngày 10/11/2019 B đã sử dụng hết, số Methadone B mua ngày 14/11/2019 B đã bán cho Bùi Huy N ngay sau đó để kiếm lời là 200.000đồng.
Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp thống nhất nhau và còn phù hợp, thống nhất lời khai của người làm chứng, của người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong tài liệu vật chứng thu giữ, kết luận giám định ma tuý, tài liệu thực nhiệm điều tra, và các tài liệu khác đã viện dẫn ở phần xét thấy.
Trên cơ sở các chứng cứ trên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 10/11/2019, tại khu vực vỉa hè Bưu điện thành phố C, Cao Thanh S đã bán trái phép chất ma túy Methadone cho Đới Ngọc B mục đích để B sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 7 giờ ngày 14/11/2019, Cao Thanh S bán trái phép cho Đới Ngọc B 0,1175g Methadone, Đới Ngọc B đã mang bán lại cho Bùi Huy N thì bị Công an thành phố C bắt quả tang.
(Methadone có số thứ tự 48 thuộc danh mục II của Nghị định số 73/2018/NĐ- CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ, Nghị định ban hành các danh mục chất ma tuý và tiền chất) Hành vi này của các bị cáo Cao Thanh S, Đới Ngọc B đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” đối với Cao Thanh S thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên, theo quy định tại điểm tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự (tội danh có khung hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù); đối với Đới Ngọc B thuộc trường hợp quy định tại điểm tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự (tội danh có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù).
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Methadone là một trong những chất ma tuý, nhà nước độc quyền quản lý. Các bị cáo đủ nhận thức và biết việc mua đi bán lại Methadone là trái pháp luật, nhưng vì lối sống buông thả, ý thức chấp hành pháp luật kém, đã mua bán kiếm lời. Bị cáo Cao Thanh S lợi dụng việc mình được uống Methadone miễn phí, đã lén lút bớt lại một phần rồi mang bán để lấy tiền chi tiêu cá nhân, Đới Ngọc B lợi dụng việc S bán Methadone, nên mua đi bán lại để kiếm lợi nhuận. Hành vi của các bị cáo đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Trung tâm y tế thành phố C, làm mất trật tự trị an xã hội, gây bất B trong nhân dân. Vì vậy cần thiết xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo để răn đe và phòng ngừa tội phạm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Cao Thanh S và Đới Ngọc B khai báo thành khẩn hành vi phạm tội, bị cáo S ra đầu thú, bị cáo B có bố, mẹ được thưởng Huân chương kháng chiến, là người có công với cách mạng, nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không pH chịu tình tiết tăng nặng nào, nhưng đều đã đi cai nghiện bắt buộc, bị cáo Cao Thanh S còn bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, xác định các bị cáo thuộc trường hợp nhân thân xấu.
[5] Trong vụ án này có 02 bị cáo, nhưng 02 bị cáo phạm tội độc lập, không thuộc trường hợp đồng phạm. Mỗi bị cáo độc lập chịu trách nhiệm về tội phạm mình thực hiện.
[6 ] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của từng bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo để quyết định hình phạt; xét tính chất tội phạm các bị cáo thực hiện, thì cần pH cách ly các bị cáo khỏi xã hội thì mới có thể giáo dục cải tạo được đối với các bị cáo.
[7] Về vật chứng:
Số tiền 400.000 đồng thu trên tay pH B, B xác nhận trong đó 200.000đồng là tiền mua ma tuý còn thừa, B chưa kịp trả cho N, còn 200.000đồng là tiền B được hưởng chênh lệch trong việc bán ma tuý cho N, nên sẽ trả cho N 200.000đồng và tịch thu nộp ngân sách nhà nước 200.000đồng; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung của B, B xác nhận đã dùng để nhận điện thoại của N và dùng để gọi điện hỏi mua ma tuý của S nên xác định là vật dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung ngân sách nhà nước. 01 ví giả da màu đen, 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ điều trị Methadol, 01 thẻ bảo hiểm y tế đều mang tên Đới Ngọc B và số tiền 500.000 đồng, xác định là giấy tờ tuỳ thân và tài sản riêng của Đới Ngọc B, không liên quan đến hành vi phạm tội, trả cho B.
Chiếc điện thoại di động OPPO vỏ màu đen thu giữ của S, bị cáo đã dùng để nhận điện thoại của B gọi đến hỏi mua ma tuý, xác định là vật dùng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Chiếc xe máy Yamaha Sirius màu S đen, mang BKS: 14U1-065.35 bị cáo S giao nộp khi ra đầu thú quá trình điều tra xác định biển kiểm soát là biển giả, số khung số máy đều bị tẩy xóa, không xác định được số nguyên thủy ban đầu. Cơ quan CSĐT Công an thành phố C tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý, nên không xem xét xử lý trong vụ án này. 01 thẻ điều trị Methadone, 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Cao Thanh S, xác định là giấy tờ liên quan nhân thân của bị cáo, trả lại cho bị cáo S. Truy thu của S số tiền 300.000đồng là tiền S thu được từ việc bán ma tuý cho B để nộp ngân sách nhà nước.
Số vật chứng thu giữ của Bùi Huy N, Số mẫu vật hoàn lại sau giám định xác định là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ; 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, N đã dùng để liên lạc mua ma tuý xác định là vật liên quan đến việc phạm tội tịch thu sung ngân sách nhà nước; 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng và số tiền 80.000đồng, không liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho Bùi Huy N.
01 xe máy Honda Airblade màu đỏ trắng đeo biển số 14U1- 096.63 thu giữ của Bùi Huy N, do không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, cơ quan điều tra đã trả cho ông Bùi Huy Cường (bố của N) là chủ sở hữu hợp pháp nên không đề cập giải quyết.
[8] Án phí: Các bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[10] Đối với Bùi Huy N có hành vi tàng trữ trái phép 0,1175 gam Methadone mục đích để sử dụng, tuy nhiên chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an thành phố C ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với N là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Cao Thanh S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo Cao Thanh S 7 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 14/11/2019.
Căn cứ: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Đới Ngọc B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo Đới Ngọc B 27 (hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/11/2019 Áp dụng điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
-Tịch thu tiêu huỷ số ma túy hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 7063/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ công an.
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước : 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen đã qua sử dụng, model : SM - G900H, số IMEI :353285/06/230809/3 kèm 02 sim và 01 pin ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng , model: CPH1717 kèm 02 sim, 01 pin ; 01 điện thoại Nokia màu đen, model : TA-1034, kèm 01 pin và 01 sim.
-Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) -Trả cho Đới Ngọc B: số tiền 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng) ; 01 ví giả da màu đen đã qua sử dụng, 01 thẻ điều trị Methadone số CPM-000461 mang tên Đới Ngọc B, 01 giấy chứng minh nhân dân số 100629598 mang tên Đới Ngọc B; 01 thẻ bảo hiểm y tế số GD 4222221361082 mang tên Đới Ngọc B.
-Trả cho Cao Thanh S: 01 thẻ điều trị Methadone số không nhìn rõ, cấp ngày 27/3/2012 mang tên Cao Thanh S; 01 giấy chứng minh nhân dân số 100762138 mang tên Cao Thanh S.
-Trả lại cho Bùi Huy N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã qua sử dụng, model : A1429, số IMEI 1 :35449309623 kèm 01 sim và số tiền 280.000đồng (hai trăm tám mươi nghìn đồng).
(Hiện trạng toàn bộ vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 107/BB-THA ngày 09/04/2020 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố C).
-Truy thu của Cao Thanh S số tiền 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) nộp ngân sách nhà nước.
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc các bị cáo Cao Thanh S và Đới Ngọc B mỗi bị cáo pH chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Bùi Huy N biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, đối với các bị cáo kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đối với Bùi Huy N kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 67/2020/HSST ngày 14/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 67/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về