TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Ngô Văn B, sinh năm 1982, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn D và con bà Trình Thị T (đều đã chết); chưa có vợ, con; tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2018/HS-ST ngày 30/3/2018 Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích); nhân thân: Ngày 29/5/1999 Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 22/12/2000 Tòa án nhân dân huyện Đắk Nông, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 26/5/2004 Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 20/02/2008 Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 30/3/2009 Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 18/8/2011 Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt, đã được xóa án tích); bị bắt tạm giữ từ ngày 12/9/2019, đến ngày 18/9/2019 chuyển tạm giam, đang tạm giam; có mặt.
- Bị hại: Anh Trần Chí Th, sinh năm: 1980; địa chỉ: Tổ dân phố 3, phường Nghĩa Đ, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Văn B là đối tượng sống lang thang, không nghề nghiệp. Vào khoảng 06 giờ 00 phút ngày 12/9/2019, B đón xe khách từ huyện L, tỉnh Lâm Đồng đến địa bàn thị xã G để tìm kiếm việc làm, khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày thì đến nơi. Sau đó B đi vào quán cà phê P thuộc tổ dân phố 3, phường Nghĩa Đ, thị xã G để mua nước uống. Vào quán thấy anh Trần Chí Th (quản lý quán cà phê) đang nằm ngủ trên giường xếp, bên cạnh để chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S, nên B nảy sinh ý định trộm cắp. Quan sát xung quang không thấy ai, B đi đến chỗ anh Th đang nằm, lấy trộm điện thoại rồi cầm trên tay. Lúc này anh Th nghe có tiếng động nên tỉnh dậy thì bắt quả tang B đang lấy trộm điện thoại của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐG ngày 16/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự thị xã Gia Nghĩa kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S trị giá 2.152.000 đồng.
Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S, 16GB, màu đen.
Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 03/QĐ–VKS ngày 14/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Ngô Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi của mình như nội dung Quyết định truy tố và thừa nhận Quyết định của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng pháp luật.
Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa giữ nguyên quyết định truy tố; sau khi phân tích nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ngô Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Văn B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 12/9/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận ngày 24/9/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa ra Quyết định xử lý vật chứng số 934 trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S, 16GB, màu đen cho anh Trần Chí Th là chủ sở hữu hợp pháp.
Bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 12/9/2019, tại tổ dân phố 3, phường Nghĩa Đ, thị xã G, Ngô Văn B đã lén lút chiếm đoạt của anh Trần Chí Th 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S, 16GB, màu đen. Tại kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản thì 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S, 16GB, màu đen trị giá 2.152.000 đồng. Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Ngô Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, cụ thể:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
……”.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất an trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có đủ điều kiện để nhận thức được trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lối sống buông thả, lười lao động, thích hưởng thụ, bị cáo vẫn cố tình thực hiện.
Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 29/5/1999 Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 22/12/2000 Tòa án nhân dân huyện Đắk Nông, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 26/5/2004 Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 20/02/2008 Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 30/3/2009 Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 18/8/2011 Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo mới chấp hành xong hình phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2018/HS-ST ngày 30/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, chưa được xóa án tích, mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý, thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị và giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng và đấu tranh chống tội phạm.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, việc bị cáo không chiếm đoạt được tài sản là do nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo. Vì vậy, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 15; các khoản 1, 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[6] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S, 16GB, màu đen là tài sản của anh Trần Chí Th, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa đã trả lại cho anh Th, là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[8] Xét các chứng cứ buộc tội và quan điểm xử lý của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo, là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Ngô Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 15; các khoản 1, 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Ngô Văn B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 12/9/2019.
3. Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Chấp nhận ngày 24/9/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa ra Quyết định xử lý vật chứng số 934 trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO loại A3S, 16GB, màu đen cho anh Trần Chí Th là chủ sở hữu hợp pháp.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Ngô Văn B phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 67/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 67/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về