Bản án 67/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 66/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Đức T, sinh năm 1984 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn P, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Nguyễn Thị T (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18 tháng 7 năm 2019, chuyển tạm giam từ ngày 26 tháng 7 năm 2019; có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Phan Văn T và anh Nguyễn Bá M; đều vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 12 giờ 35 phút, ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại thôn Dụ Nghĩa, xã Lê Thiện, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, tổ công tác Công an huyện An Dương và Công an xã Lê Thiện phát hiện bắt quả tang Phạm Đức T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lực lượng Công an phát hiện và thu giữ tại túi quần phía trước bên trái T đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, bên trong gồm có 01 túi nilong màu trắng, kích thước 03x3,5cm bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, 02 túi nilong kích thước 2,5x2,5cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng. T khai nhận đây là ma túy đá và Heroin của T mang đi bán cho khách nhưng chưa bán được thì bị lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ. Ngoài ra, lực lượng Công an còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng vàng đã qua sử dụng; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Jupiter Gravita biển số 15B1-609.78.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của T, lực lượng Công an thu giữ 01 mảnh dao lam, 01 cân tiểu ly, 01 kéo cắt giấy màu vàng, 20 túi nilong kích thước 2,5x2,5cm, 20 mảnh giấy vở học sinh nhỏ, 01 hộp nhựa màu trắng. T khai nhận đây là những dụng cụ dùng để chia nhỏ ma túy để bán kiếm lời.

Tại Kết luận giám định số 102/KLGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: "Chất bột dạng cục gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,2035gam, là loại Heroin. Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,0913gam, là loại Methamphetamine".

Tại Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 22 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Đức T khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 18 tháng 7 năm 2019, T dang ở nhà tại thôn Phí Xá, xã Lê Thiện, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng thì nhận được tin nhắn của Phạm Văn N, sinh năm 1984, ở thôn Dụ Nghĩa, xã Lê Thiện, huyện An Dương, Hải Phòng với nội dung: "Tí về mang cho tao một ít hàng", T hiểu là N muốn mua của T 01 chỉ ma túy Heroin. T đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 15B1-609.78 từ nhà đi đến khu vực cổng Trung tâm điều trị Methadone An Hưng, tại thôn Nam Hòa, xã An Hưng, huyện An Dương, Hải Phòng để mua ma túy. Tại đây, T mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy Heroin giá 2.500.000đồng và 02 túi ma túy Methamphetamine trị giá 600.000đồng. T cho số ma túy vào trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 rồi cất giấu trong túi quần phía trước bên trái. Sau đó, T điều khiển xe mô tô đi về thôn Dụ Nghĩa, xã Lê Thiện, huyện An Dương, Hải Phòng để bán ma túy cho Nhật nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Công bố lời khai của người chứng kiến có nội dung như bị cáo khai nhận tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Đức T từ 05 năm đến 06 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 7 năm 2019. Phạt bị cáo từ 5.000.000đồng đến 10.000.000đồng để sung Ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định được niêm phong trong 01 phong bì thư dán kín; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, 01 dao lam, 01 cân tiểu ly, 01 kéo cắt giấy màu vàng, 20 túi nilong kích thước 2,5x2,5cm, 20 mảnh giấy vở học sinh nhỏ, 01 hộp nhựa màu trắng.

Tch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Mastel màu trắng vàng đã qua sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện An Dương lập hồi 13 giờ 20 phút ngày 18 tháng 7 năm 2019, phù hợp biên bản khám xét, phù hợp với vật chứng thu giữ, phù hợp với kết luận giám định số 402/KLGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019 và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ kết luận vào khoảng 12 giờ 35 phút ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại thôn Dụ Nghĩa, xã Lê Thiện, bị cáo Phạm Đức T đã có hành vi tàng trữ ma túy Heroin và Methamphetamine với mục đích mang đi bán cho người khác kiếm lời thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo Phạm Đức T đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma túy", vi phạm Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Khối lượng ma túy bị cáo Phạm Đức T tàng trữ với mục đích mang đi bán cho khách kiếm lời là 3,2035gam ma túy Heroin và 1,0913 gam ma túy Methamphetamine nên hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội ở địa phương, làm nan truyền nạn nghiện ngập và các loại bệnh xã hội HIV- AIDS, đây còn là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục cải tạo các bị cáo, đồng thời có tác dụng giáo dục chung đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự .

- Về các vấn đề khác:

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định, gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo ở mức khởi điểm là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 là vật chứng của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

01 dao lam, 01 cân tiểu ly, 01 kéo cắt giấy màu vàng, 20 túi nilong kích thước 2,5x2,5cm, 20 mảnh giấy vở học sinh nhỏ, 01 hộp nhựa màu trắng đây là những đồ vật sử dụng để đóng gói ma túy, thu của bị cáo có giá trị sử dụng không lớn nên tịch thu tiêu hủy.

01 điện thoại di động Masstel màu trắng vàng đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước..

Đi với chiếc xe mô tô YAMAHA Jupiter Gravita biển số 15B1-609.78, kết quả giám định biển số xác định biển số trên là biển số giả. T khai nhận là do T mua của Lê Đức P, sinh năm 1983, trú tại thôn V, xã Đ, huyện A, Hải Phòng với giá 13.000.000đồng nhưng thỏa thuận bằng miệng, không có giấy tờ mua bán, Do P chưa đưa giấy tờ xe cho T nên T chỉ trả trước P 4.000.000đồng lấy xe đi lại, khi nào Phương đưa giấy tờ xe thì T mới trả hết tiền. Xác minh tại Công an xã Đại Bản, hiện nay P không có mặt tại địa phương. Qua việc xác minh nguồn gốc phương tiện qua số khung số máy, xác định chủ sở hữu của xe mô tô trên là chị Phạm Thị N, sinh năm 1983 ở xóm 7, xã T, huyện T, Hải Phòng nhưng chị N hiện tại không có mặt ở địa phương nên việc xác minh chủ sở hữu hợp pháp cũng như đối tượng liên quan chưa có kết quả, Cơ quan điều tra tạm giữ để làm rõ xử lý sau. Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Đối với Phạm Văn N là người mua ma túy của Phạm Đức T, Lê Đức P là người bán chiếc xe mô tô không rõ nguồn gốc cho T, Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập nhiều lần nhưng hiện không có mặt ở địa phương nên chưa làm việc được; đối với người đàn ông bán ma túy cho T chưa xác định được lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Đức T 05 (năm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 7 năm 2019. Phạt bị cáo 5.000.000đồng sung Ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao bì được niêm phong lại trong phong bì có dấu niêm phong số 402/2019/PC09; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, 01 dao lam, 01 cân tiểu ly, 01 kéo cắt giấy màu vàng, 20 túi nilong kích thước 2,5x2,5cm, 20 mảnh giấy vở học sinh nhỏ, 01 hộp nhựa màu trắng.

Tch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng vàng đã qua sử dụng (Tình trạng, đặc điểm vật chứng thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23 tháng 10 năm 2019 giữa Công an huyện An Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về