Bản án 67/2018/HS-ST ngày 02/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 67/2018/HS-ST NGÀY 02/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2018/HSST ngày 13/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2018/QĐXXST-HS ngày 21/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn T, sinh ngày 17/6/1991 tại huyên M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản T, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Thái; giơi tinh : Nam; tôn giáo: Không; quôc tich : Viêt Nam; con ông Hoàng Văn N và bà Ngần Thị D; bị cáo có vợ là Vì Thị H và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/11/2017 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/11/2017, Hoàng Văn T đi nhờ xe máy của một người không quen biết đến khu vực biên giới Việt Nam - Lào thuộc địa phận bản P, xã C, huyện M tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. T gặp và mua của một người phụ nữ Mông không quen biết khoảng 40 tuổi một gói Hêrôin với giá 100.000 đồng và 36 viên ma túy tổng hợp với giá 700.000 đồng. T vào bụi cây ven đường sử dụng 2 viên ma túy tổng hợp, số ma túy còn lại gồm:

01 gói Hêrôin và 34 viên ma túy tổng hợp T gói chung vào túi nilon màu xanh rồi cầm trong tay đi bộ về nhà. Khi T đến khu CM thuộc bản P, xã C thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Cửa khẩu Lóng Sập kiểm tra, phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng gồm: 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 01 gói nilon màu trắng (bên trong chứa cục bột màu trắng nghi là Hêrôin) và 34 viên nén hình tròn màu hồng trên bề mặt đều có ký hiệu WY nghi là ma túy tổng hợp. Tạm giữ của Hoàng Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia Lumia 435 và 01 sim.

Ngày 01/12/2017, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Lóng Sập - Bộ đội biên phòng tỉnh Sơn La đã khởi tố vụ án, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã quyết định chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 01/12/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Phòng PC54 Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, cân tách bì, xác định trọng lượng (khối lượng) và lấy mẫu gửi giám định xác định có phải là ma túy không, thuộc loại ma túy gì, trọng lượng (khối lượng) của mẫu gửi giám định như sau:

- Số cục bôt mau trăng nghi la Hêrôin thu giư của Hoàng Văn T có trọng lương (khối lượng) 0,40 gam; Lấy 0,10 gam làm mẫu gửi giám định, mẫu ký hiệu “T1”.

- 34 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp  (Methamphetamine) thu giư cua Hoàng Văn T có trọng lượng (khối lượng) 3,25 gam; Lấy 5 viên được 0,49 gam làm mẫu gửi giám định, mẫu ký hiệu “H1”.

Tại Kết luận giám định số 72/KLMT ngày 14/12/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy; Loại chất Hêrôin; Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,49 gam. Tông trọng lượng ma túy thu giữ được là 0,40 gam; Loại chất Hêrôin và 3,25 gam; Loại chất Methamphetamine.

Đối với người bán ma túy cho T, do T không biết họ tên , địa chỉ nên không có căn cứ điều tra.

Căn cứ vào Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII các tội phạm về ma túy của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì tỷ lệ % hai chất ma túy thu giữ của Hoàng Văn T được xác định như sau

- Tỷ lệ % về trọng lượng Hêrôin so với mức tối thiểu quy định tại điểm h khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là 0,40:5x100 = 8%.

- Tỷ lệ % về trọng lượng ma túy ở thể rắn so với mức tối thiểu quy định tại điểm m khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là 3,25: 20x100 = 16,25%.

Tổng tỷ lệ % hai chất ma túy là 8% + 16,25% = 24,25%, do đó Hoàng Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Căn cứ Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì tổng số lượng chất ma túy được quy đổi như sau: 3,25 gam Methamphetamine quy đổi tương đương 1,08 gam Hêrôin. Tổng số lượng hai chất ma túy thu giữ của Hoàng Văn T tương đương số lượng Hêrôin 0,40 gam + 1,08 gam = 1,48 gam.

Bản c áo trạng số 27/CT-VKSMC ngày 12/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Hoàng Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hoàng Văn T, bắt ngày 30/11/2017 (0,30 gam cục bột màu trắng và 29 viên có trọng lượng 2,76 gam cùng vỏ gói niêm phong ban đầu). Tạm giữ của Hoàng Văn T để đảm bảo thi hành án 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia Lumia 435 và 01 sim.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, bị cáo Hoàng Văn T giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong vật chứng, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định; lời khai của những người chứng kiên sư viêc và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 30/11/2017, Hoàng Văn T đã  thực  hiện  hành  vi  cất  giấu  trái  phép  0,40  gam  Hêrôin  và  3,25  gam Methamphetamine để sư dung cho ban thân . Tổng số lượng hai chất ma túy sau khi quy đổi tương đương 1,48 gam Hêrôin. Hành vi của bị cáo đu yêu tô câu thành tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Đối chiếu với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp "có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định phạt tù từ một năm đến năm năm. Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015, xét thấy cần áp dụng các quy định có lợi của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đề nghị tuyên bố bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi của bị cáo đa xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là đôi tương nghiên ma tuy, nhận thức rõ tác hại của ma túy và   việc cât giư trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thưc hiên. Do vây, cần quyết định hình phạt nghiêm khắc và phù hợp nhằm răn đe, giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Được áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên toà thấy bị cáo không có tài sản, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối vơi 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hoàng Văn T, bắt ngày 30/11/2017 (0,30 gam cục bột màu trắng và 29 viên có trọng lượng 2,76 gam cùng vỏ gói niêm phong ban đầu). Xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, không có giá trị sử dụng, cân ap dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia Lumia 435 kèm 01 sim thu giữ của Hoàng Văn T là tài sản của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Thơi han tam giam bi cao con lai   dưới 45 ngày nên cần tiếp tục tạm giam đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội "Tàng trữ  trái phép chất ma tuý".

1. Áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 30/11/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Hoàng Văn T, bắt ngày 30/11/2017 (0,30 gam Hêrôin và 29 viên nén có trọng lượng 2,76 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu).

Tạm giữ của Hoàng Văn T để đảm bảo thi hành án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia Lumia 435, vỏ màu cam, đã qua sử dụng cũ, kèm 01 sim.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2018/HS-ST ngày 02/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:67/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về