Bản án 67/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 67/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2017/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử Số: 72/2017/HSST-QĐ ngày 05 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo.

Họ và tên: Lò Văn M, sinh ngày 20/3/1983, tại Í O, M L, Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản H, xã T L, huyện M Ch, tỉnh Sơn La. Chỗ ở hiện nay: khu vực bản N K (cũ), thị trấn Í O, huyện M L, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể đảng phái: Không; Con ông Lò Văn H, sinh năm 1954 và con bà Lò Thị Ư, sinh năm 1954 cư trú tại bản Hoa 2, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; bị cáo có vợ là Lò Thị L, sinh năm 1983 và có hai con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2010, đều ĐKHKTT tại bản Hoa 2, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; chỗ ở hiện nay khu vực bản Nà Kè (cũ), thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15 tháng 6 năm 2017 đến nay, có mặt tại phiên toà.

Nguyên đơn dân sự: Công ty cổ phần Cao su Sơn La. Địa chỉ: đường Lê Duẩn, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Người đại diện theo pháp luật ông Võ Nhật Duy - Tổng giám đốc; người đại diện theo uỷ quyền ông Nguyễn Bá Quý - Chức vụ Phó tổng giám đốc, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Lò Văn Mai bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 16 giờ ngày 23/12/2016 Lò Văn Mai một mình từ nhà lán ở khu vực bản Nà Kè ( cũ), thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La ( đây là vị trí Lò Văn Mai dựng nhà ở và cư trú trái phép) mang theo 01 cái rìu và 01 con dao lên đồi cao su sau nhà thuộc lô 48IO ( lô 14A cũ) của Đội cao su Ít Ong, huyện Mường La, do Công ty cổ phần cao su Sơn La quản lý. Mai quan sát không thấy có người trông coi nên đã dùng dao và rìu chặt trộm tổng cộng 10 cây cao su chặt bỏ cành, còn thân cây Mai vác về nhà lán với mục đích dựng khung nhà bếp.

Sau khi phát hiện cây cao su bị chặt, ngày 27/12/2016 ông Lò Văn Thanh (Đội phó đội cao su Ít Ong) có đơn trình báo với cơ quan Công an huyện Mường La, qua xác minh cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La đã thu giữ 01 cái rìu và 01 con dao do Lò Văn Mai giao nộp và 15 đoạn gỗ cây cao su tại nơi ở của Mai.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 15 đoạn gỗ cây cao su, đường kính lớn nhất 12cm, nhỏ nhất 06cm ( trong đó 09 đoạn gỗ cây cao su còn vỏ và 06 đoạn gỗ cây cao su chưa bị bóc vỏ).

- 01 con dao bằng kim loại, (cán dao dài 10cm, lưỡi dao dài 30cm, phần lưỡi dao rộng nhất 04cm).

- 01 cái rìu bằng kim loại, (cán rìu dài 40cm, lưỡi rìu dài 12cm, phần lưỡi rìu rộng nhất 07cm).

Ngày 30/12/2016 Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La ra quyết định trưng cầu giám định số 02 định giá tài sản 10 cây cao su đã thu giữ ngày 27/12/2016 của Lò Văn Mai.

Ngày 03/01/2017 Hội đồng định giá tài sản có quyết định định giá số 01: Kết luận 10 cây cao su 08 năm tuổi có trị giá 8.495.738 đồng.

Công ty cổ phần cao su Sơn La yêu cầu Lò Văn Mai bồi thường thiệt hại trị giá 17.830.574 đồng.

Bản cáo trạng số 509/KSĐT-TA ngày 23/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La truy tố bị cáo Lò Văn Mai về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn Mai đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Mai phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60  Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn Mai từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Đối với vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu huỷ 15 đoạn gỗ cây cao su, đường kính lớn nhất 12cm, nhỏ nhất 06cm; 01 con dao bằng kim loại, cán dao dài 10cm, lưỡi dao dài 30cm, phần lưỡi dao rộng nhất 04cm; 01 cái rìu bằng kim loại, cán rìu dài 40cm, lưỡi rìu dài 12cm, phần lưỡi rìu rộng nhất 07cm.

Đề nghị buộc bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Mai  thừa nhận: Ngày 23/12/2016 Lò Văn Mai đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý bảo vệ của Đội cao su Ít Ong, huyện Mường La để lén lút chặt trộm 10 cây cao su 8 năm tuổi có trị giá 8.495.738đ với mục đích sử dụng thì bị phát hiện.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản ghi lời khai, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng của vụ án, kết luận định giá tài sản chiến đoạt. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi trộm cắp cây cao su mà bị cáo Lò Văn Mai thực hiện đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 138 quy định “ Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Do vậy bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, nhưng hám lời bất chính nên bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Công ty cổ phần Cao su Sơn La, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương. Song khi lượng hình Toà cần xem xét áp dụng một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, theo điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 điều 46; Điều 60 BLHS, vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên toà người đại diện Nguyên đơn dân sự xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo. Do vậy Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là không cần thiết, như vậy cũng đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 138 BLHS quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”.

Xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét không áp dụng đối với bị cáo.

Về phần dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là 10 cây cao su đang trồng được 08 năm tuổi, kết luận của Hội đồng định giá tài sản có giá trị 8.595.738 đồng. Ngày 25/8/2017 bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn dân sự số tiền 17.830.574 đồng (bao gồm cả thiệt hại phát sinh) theo yêu cầu của Nguyên đơn dân sự. Xét thấy đây là sự thoả thuận và tự nguyện bồi thường, không bên nào bị ép buộc, phù hợp với pháp luật. Toà cần xem xét chấp nhận.

Về vật chứng của vụ án gồm: 15 đoạn gỗ cây cao su, đường kính lớn nhất 12cm, nhỏ nhất 06cm ( trong đó 09 đoạn gỗ cây cao su còn vỏ và 06 đoạn gỗ cây cao su chưa bị bóc vỏ) là tài sản của Nguyên đơn dân sự Công ty cổ phần Cao su Sơn La, đã bị bị cáo chặt hạ chiếm đoạt, Nguyên đơn dân sự từ chối nhận lại, không còn giá trị sử dụng. Toà cần tịch thu huỷ. 01 con dao bằng kim loại, (cán dao dài 10cm, lưỡi dao dài 30cm, phần lưỡi dao rộng nhất 04cm); 01 cái rìu bằng kim loại, (cán rìu dài 40cm, lưỡi rìu dài 12cm, phần lưỡi rìu rộng nhất 07cm). Là của bị cáo dùng làm công cụ thực hiện tội phạm, không còn giá trị sử dụng. Toà cần tịch thu huỷ.

Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Lò Văn M phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn M 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 19/9/2017). Tuyên trả tự do cho bị cáo sau khi tuyên án, nếu bị cáo không bị giam giữ về hành vi vi phạm pháp luật khác.

- Giao bị cáo Lò Văn M cho UBND xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. “ Nếu trong thời gian thử thách người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về phần dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 584; khoản Điều 585 Bộ luật dân sự.

- Chấp nhận tự thoả thuận của bị cáo và nguyên đơn dân sự như sau: Bị cáo bồi thường cho Nguyên đơn dân sự Công ty cổ phần Cao su Sơn La số tiền 17.830.574 đồng (Đã giao trả đủ).

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Vật chứng thu giữ của vụ án được xử lý như sau:

- 15 đoạn gỗ cây cao su, đường kính lớn nhất 12cm, nhỏ nhất 06cm ( trong đó 09 đoạn gỗ cây cao su còn vỏ và 06 đoạn gỗ cây cao su chưa bị bóc vỏ); 01 con dao bằng kim loại, (cán dao dài 10cm, lưỡi dao dài 30cm, phần lưỡi dao rộng nhất 04cm); 01 cái rìu bằng kim loại, (cán rìu dài 40cm, lưỡi rìu dài 12cm, phần lưỡi rìu rộng nhất 07cm). Tuyên tịch thu hủy.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lò Văn M phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:67/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về