Bản án 667/2019/HS-ST ngày 27/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 667/2019/HS-ST NGÀY 27/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 12 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 572 /2019/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 685/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn L, sinh ngày 10 tháng 5 năm 1995; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Xóm D, xã K P, huyện Đ T, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Đình B, sinh năm 1965 và bà Vũ Thị H, sinh năm 1967; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: 02

+ Tại bản án số 03 ngày 06/02/2015 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, Chấp hành xong ngày 21/7/2015.

+ Tại bản án số 34 ngày 02/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, Chấp hành xong ngày 29/7/2017. Bị cáo bị tạm giam, giữ từ ngày 09/10/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam của Công an tỉnh Thái Nguyên

- Bị hại: Anh Phùng Khắc K (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 13, phường T Đ, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

- Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Duy P (vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 13, phường T Đ, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

+ Võ Văn Đ (vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 14, phường T Đ, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên

+ Đặng Thị H (vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 13, phường T Đ, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ ngày 09 tháng 10 năm 2019,Vũ Văn L đi đến khu vực Bệnh viện tâm thần Thái Nguyên,mục đích xem ai có tài sản gì để sơ hở thì trộm cắp mang bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, L đi đến nhà anh Phùng Khắc K (sinh năm 1986 tại tổ 13, phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên), thấy cửa cổng không khóa, do cửa cuốn không đóng hết nên L quan sát được bên trong ngôi nhà có dựng một chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda Wave S, màu sơn đỏ -xám, BKS 20L8– 7851. Quan sát xung quanh thấy không có người nên L mở cổng đi vào trong nhà đến vị trí dựng chiếc xe mô tô BKS 20L87851, bị cáo dùng vam phá khóa mang theo từ trước để phá mở ổ khóa điện của xe. Sau khi phá mở được ổ khóa điện, L đã dắt chiếc xe đi ra đến sân cách vị trí dựng xe 6,5 m, thì chị Đặng Thị H, (là vợ của anh K) đang chơi ở bên nhà anh Nguyễn Duy P hàng xóm phát hiện đã hô hoán kêu “Trộm! trộm”, thấy bị phát hiện L đã vứt bỏ chiếc xe mô tô tại sân của gia đình anh K bỏ chạy ra đường về phía Bệnh viện tâm thần Thái Nguyên được khoảng 50m thì bị quần chúng nhân dân đuổi theo bắt giữ và báo cho Công an phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên.

Tại bản kết luận về giá số 308/HĐĐGTS ngày 17/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận trị giá tài sản là 8.000.000đồng. Vật chứng của vụ án gồm: 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda Wave S, màu sơn đỏ -xám, BKS 20L8– 7851 hiện đã trả lại anh Phùng Khắc Khoan đang quản lý sử dụng; 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại gồm 01 tay vam hình chữ L, có chiều dài hai cạnh lần lượt là 13,2cm và 6,6 cm và 01 đầu vam nhọn, dài 7,3cm; 01 điện thoại di dộng, nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen, đã qua sử dụng. Số vật chứng đang được lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Tại bản cáo trạng số 01/VKS-CT ngày 09/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Vũ Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 173 của BLHS, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Vũ Văn L từ 18 đến 24 tháng tù;

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại; tạm giữ 01 điện thoại di dộng, nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen, đã qua sử dụng để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo chịu án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội, không oan. Bị cáo nói lời sau cùng ăn năn hối hận vì hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử cho được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo; bị hại, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án từ khi khởi tố vụ án, điều tra, truy tố: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Xét về hành vi của bị cáo thấy rằng:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản sự việc, vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có căn cứ xác định:

Hi 10 giờ ngày 09 tháng 10 năm 2019 tại tổ 13, phường T Đ, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Văn L đã có hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave S màu đỏ - xám BKS 20L8-7851 của anh Phùng Khắc K có trị giá 8.000.000 đồng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực nhận thức và khả năng điều khiển hành vi. Nhưng vì lòng tham, lợi dụng sự sơ hở của người khác, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác với lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

Khon 1 Điều 173 BLHS quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng……. thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến ba năm”.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 của BLHS. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có nghề nghiệp, trong hai năm 2016, 2017 liên tiếp bị Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 09 tháng tù giam và Tòa án nhân dân huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 12 tháng tù giam đều về tội “Trộm cắp tài sản”. Nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện, không biết sửa sai mà nay lại tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản của người khác cho thấy thái độ coi thường pháp luật của bị cáo. Những yếu tố này HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt: Sau khi xét hành vi, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thì thấy rằng cần có có mức án nghiêm khắc để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, cũng như đảm bảo tính chất ngăn ngừa tội phạm nói chung. Xét thấy mức hình phạt từ 18-24 tháng tù mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Hiện nay bị cáo không có công ăn việc làm, không có tài sản. Do đó xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh Phùng Khắc K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Do đó HĐXX không đặt ra xem xét.

[8] Về vật chứng của vụ án: 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda Wave S, màu sơn đỏ -xám, BKS: 20L8– 7851 đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Phùng Khắc K quản lý sử dụng nên không xem xét;

- 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại gồm 01 tay vam hình chữ L, có chiều dài hai cạnh lần lượt là 13,2cm và 6,6 cm và 01 đầu vam nhọn, dài 7,3cm là công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di dộng, nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc trộm cắp tài sản, cần trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên trong vụ án này xét thấy bị cáo còn có nghĩa vụ thi hành án phí nên cần tạm giữ điện thoại trên để đảm bảo thi hành án.

[9] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Vũ Văn L 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 09/10/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điều 329 của BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đặt ra vẫn đề giải quyết 3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại gồm 01 tay vam hình chữ L, có chiều dài hai cạnh lần lượt là 13,2cm và 6,6 cm và 01 đầu vam nhọn dài 7,3 cm.

Tm giữ 01 điện thoại di dộng, nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen, bên trong có 01 sim viettel, số Imei 352055/02/051365/9, đã qua sử dụng để đảm bảo thi hành án.

(Đặc điểm các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 96 ngày 10/12/2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thái Nguyên).

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Văn L bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST sung ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 667/2019/HS-ST ngày 27/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:667/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về