Bản án 663/2020/HS-PT ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 663/2020/HS-PT NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 09 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 617/2020/TLPT-HS ngày 10 tháng 08 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Quý M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” do có kháng cáo của Bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 78/2020/HS-ST ngày 29 tháng 06 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Quý M, sinh năm 19XX; Giới tính: Nam.

HKTT và trú tại: Số 10, ngõ 32 Ngọc H, phường Đội C, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Nguyễn Bá T và con bà Trần Thị Tu; Có vợ Trần Thị Hồng Th; Có hai con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2016.

Theo danh bản chỉ bản số: 291 lập ngày 03/7/2019 do công an quận Tây Hồ lập và lý lịch địa phương cung cấp Bị cáo có 01 tiền án ngày 20/04/2018 Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ra trại ngày 22/11/2018.

Nhân thân: Có 02 tiền sự.

- Ngày 16/06/2002 Công an phường Cống Vị xử phạt hành chính hành vi gây rối Trật tự công cộng.

Ngày 20/10/2007 Công an phường Vĩnh Phúc xử phạt hành chính hành vi gây rối Trật tự công cộng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ: Ngày 29/6/2019; Tạm giam: Ngày 08/07/2019 (Có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

1. Anh Phùng Bảo Khánh, sinh năm 1978.

Trú tại : Số 5D, ngõ 530 Thụy Khuê, Phường Bưởi , quận Tây Hồ , thành Phố Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa).

2. Bà Nguyễn Tuyết Nhung, sinh năm 1959.

Trú tại : Số 5A, ngõ 530 Thụy Khuê, Phường Bưởi , quận Tây Hồ , thành Phố Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa).

Cảnh sát hình sự công an phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành Phố Hà Nội.

3. Anh Nguyễn Tiến Tùng, sinh năm 1991;

4. Anh Đoàn Mạnh Hùng, sinh năm 1995 (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt lại như sau: Bị cáo Nguyễn Quý M là người nghiện sử dụng ma túy đá, sống lang thang, bán nước chè tại vỉa hè trước cửa số nhà 92 ngõ 6 Vĩnh Phúc, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Khoảng 21 giờ 30 ngày 28.06.2019 sau khi dọn hàng nước chè xong thì bị cáo M điều khiển xe máy Dream mang BKS 29 F8- 1475 đi đến nhà chú quen biết ngoài xã hội tên là Thắng ở số 2, ngõ 530 Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội chơi. Khi bị cáo M đi trên đường Bưởi thì gặp bạn là Phú (Là cháu ruột Thắng, ở cùng địa chỉ với Thắng) đang ngồi uống bia. Phú rủ bị cáo M vào uống bia cùng. Sau đó bị cáo M điều khiển xe máy chở Phú về nhà. Khi đến sân nhà Phú, bị cáo M dừng xe và đi bộ lên tầng 2 để tìm Thắng nhưng nhà Thắng khóa cửa. Bị cáo M điều khiển xe máy đi về.

Đến 22h00 ngày 28.06.2019 khi bị cáo M vừa đi xe máy ở nhà Phú ra, được khoảng 10 mét đến trước cửa số nhà 5A ngõ 530 Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thì bị tổ công tác Công an phường Bưởi kiểm tra hành chính. Tổ công tác đã phát hiện bị cáo M dùng tay phải của mình ném một túi nilong màu trắng ra phía sau xuống dưới đất.

Tổ công tác công an phường Bưởi dừng xe của bị cáo M và đã mở túi nilong này ra thì thấy bên trong có bốn túi nilon màu trắng kích thước 2x2cm bên trong mỗi túi đều có chứa tinh thể màu trắng, một chiếc ống nhựa hình trụ tròn màu tím dài 05cm đầu vót nhọn. Tổ công tác đã lập biên bản niêm phong tạm giữ tang vật, có sự chứng kiến của 02 nhân chứng là bà Nguyễn Tuyết Nhung và anh Phùng Bảo Khánh. Sau đó đưa bị cáo M về trụ sở Công an phường Bưởi để làm rõ.

Bị cáo Nguyễn Quý M khai nhận cách hôm bị bắt khoảng 01 tuần bị cáo M có sử dụng ma túy đá. Tuy nhiên bị cáo M không thừa nhận túi nilong chứa ma túy đá cơ quan Công an thu giữ là của bị cáo M. Bị cáo M được chứng kiến kết quả Cơ quan công an tiến hành giám định ma túy, công nhận kết quả là đúng. Kiểm tra điện thoại di động của bị cáo Nguyễn Quý M không có thông tin liên quan đến ma túy. Kết quả thử nước tiểu của bị cáo M dương tính với ma túy Methamphetamine.

Lời khai nhân chứng là anh Phùng Bảo Khánh khai nhìn thấy việc bị cáo M ném túi nilông từ tay phải ra phía sau xuống đất khi bị Cơ quan công an kiểm tra. Chứng kiến việc cơ quan công an thu giữ túi nilông ma túy dưới đất và bị cáo M không nhận là của bị cáo M.

Lời khai của nhân chứng bà Nguyễn Tuyết Nhung khai nhìn thấy việc cơ quan công an kiểm tra và thu giữ túi nilông ma túy dưới đất và bị cáo M không nhận là của bị cáo M.

Cơ quan cảnh sát điều tra cùng Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã tiến hành thực nghiệm điều tra, kết quả cho thấy vị trí bị cáo M bị kiểm tra, vị trí thu giữ túi nilông chứa ma túy mà bị cáo M ném ra, vị trí 02 nhân chứng được chứng kiến sự việc đều phù hợp, ánh sáng đèn điện tại nơi cơ quan Công an kiểm tra hành chính bị cáo M, đủ để quan sát, phát hiện sự việc. Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành giám định đường vân, giám định dấu vết sinh học trên vật chứng thu giữ kết quả không phát hiện có liên quan đến bị cáo Nguyễn Qúy M.

Đối với Phùng Đức Phú (Sinh năm 1980; Trú tại số 02, ngõ 530 Thụy Khuê, phường Bưởi, là bạn của bị cáo M) đã khai: Phú đang ngồi uống bia ở đường Bưởi thì nhìn thấy bị cáo M điều khiển xe máy đi một mình, Phú gọi bị cáo M và ngồi uống bia cùng bị cáo M, khoảng 20 phút sau thì bị cáo M đèo Phú về nhà Phú tại địa chỉ nêu trên. Sau đó Phú vào phòng còn bị cáo M ra về. Phú không biết việc bị cáo M có ma túy hay không. Lời khai của Phú phù hợp với các tài liệu thu thập được. Không có tài liệu chứng M việc Phú có liên quan đến số ma túy của bị cáo M nên cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý đối với Phú.

Đối với Phùng Đức Thắng (Sinh năm 1962; Trú tại số 02, ngõ 530 Thụy Khuê, phường Bưởi, là chú quen biết ngoài xã hội của bị cáo M) Thắng khai: Thắng không có quan hệ gì với bị cáo M, không biết việc bị cáo M có ma túy hay không, bị cáo M là bạn của Phú là cháu ruột của Thắng. Không có tài liệu chứng M việc Thắng có liên quan đến số ma túy của bị cáo M nên cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý Thắng.

Tang vật thu giữ của bị cáo Nguyễn Quý M:

- 01 túi nilông màu trắng kích thước 6x3,5cm bên trong có: 01 chiếc ống nhựa hình trụ tròn màu tím dài 05cm đầu vót nhọn ; 04 túi nilông màu trắng kích thước 2x2cm bên trong mỗi túi đều có chứa tinh thể màu trắng;

- 01 xe máy Dream mang BKS 29 F8- 1475 đã qua sử dụng, số khung 8014938, số máy 8014938;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu vàng không kiểm tra được Imei, đã qua sử dụng;

- 01 ví giả da màu đen nhãn hiệu Wallet đã qua sử dụng, bên trong có : 01 CMND mang tên Nguyễn Quý M, 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quý M, 01 đăng ký mô tô, xe máy số A0117846 mang tên Mai Thanh Tùng, Số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Cơ quan điều tra đã tiến hành giám định ma túy mà bị cáo Nguyễn Quý M cầm vứt xuống đất, mà công an đã thu giữ được, Ngày 05.07.2019, phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội có bản kết luận giám định số: 4301 Kết luận : “Tinh thể màu trắng bên trong 04 túi nilông đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,653 gam; 01 ống nhựa màu tím dài 5 cm, một đầu vót nhọn có dính ma túy loại Methamphetamine”.

Đối với chiếc xe máy Dream mang BKS 29 F8 -1475 do bị cáo M điều khiển là chiếc xe M mượn của mẹ là bà Trần Thị Tuyết. Việc M sử dụng chiếc xe và liên quan đến ma túy thì bà Tuyết không biết. Bà Tuyết mua chiếc xe nhưng không làm thủ tục sang tên, có giấy tờ mua bán. Tra cứu chiếc xe không nằm trong hệ thống xe tang vật. Tại bản kết luận giám định số: 4951 ngày 07/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự kết luận số máy số khung là nguyên thủy. Lời khai của những người liên quan phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập được. Ngày 20/11/2019 Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe và đăng ký xe cho bà Tuyết. Bà Tuyết đã nhận lại và không có yêu cầu gì.

Đối với số tiền thu giữ của bị cáo Nguyễn Quý M, Bị cáo khai là tiền do lao động mà có. Điện thoại di động là tài sản của Bị cáo.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quý M không thừa nhận gói ma túy công an thu giữ ngày 28/6/2019 là của Bị cáo không thừa nhân toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên.

Bản Cáo trạng số: 197/CT-VKS ngày 29 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã truy tố bị cáo Nguyễn Quý M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 78/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quý M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm c khoản 1 và khoản 5 Điều 249; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quý M 28 ( Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/6/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, tuyên về án phí và quyền kháng cáo của Bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 06 /07/2020 bị cáo Nguyễn Quý M kháng cáo không phạm tội.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo vẫn cho rằng Bị cáo không phạm tội.

Tịch thu tiền, điện thoại của Bị cáo là không đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

Về hình thức: Bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của Bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quý M. Tại phiên tòa phúc bị cáo M không xuất trình chứng cứ mới. Căn cứ vào lời khai của các nhân chứng, tài liệu và tổng hợp các vấn đề có liên quan khác. Vật chứng của vụ án có thể tịch thu sung công Nhà nước. Bị cáo phạm tội lần này là tái phạm và không nhân tội. Quan điểm của Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1.Về hình thức: Đơn kháng cáo của Bị cáo nộp trong thời hạn luật định vậy hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

2. Xét nội dung kháng cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Quý M tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, các nhân chứng cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, các nhân chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: : Khoảng 22h00 ngày 28/06/2019 trước cửa số nhà 5A ngõ 530 Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Quý M đã có hành vi tàng trữ trong người 0,653 gam ma túy Methaphetamine, khi bị Công an kiểm tra thì vứt xuống đất, nhưng đã bị phát hiện bắt giữ quả tang cùng vật chứng. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Quý M đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Quý M theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của Bị cáo, nhận thấy:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Quý M là nguy hiểm cho xã hội, vì đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý và chất gây nghiện khác, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy còn làm gia tăng các tệ nạn về ma tuý, lây nhiễm HIV và các loại tội phạm khác trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung, quận Tây hồ nói riêng. Ma túy có tác hại khôn lường do sức tàn phá của nó, chính vì vậy mà Nhà nước và cả xã hội ra sức đấu tranh nhằm loại trừ tệ nạn này. Bị cáo nhận thức được điều này, song vẫn mua ma túy tang trữ để sử dụng nên phạm tội.

Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì Bị cáo không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Tại phiên tòa Sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm. Do vậy không được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự; Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly Bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Với mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ và đúng pháp luật, tương sứng với hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Quý M.

Cấp phúc thẩm đã xử lý vật chứng là đúng với quy định của pháp luật cần giữ nguyên Quyết định của cấp sơ thẩm.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm quyết định không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quý M. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về phần hình sự.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 336 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

I.Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quý M.

II.Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 78/2020/HSST ngày 29 /06/2020 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội về quyết định hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quý M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm c khoản 1 và khoản 5 Điều 249; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quý M 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/6/2019.

Xử lý vật chứng:

Căn cứ các Điều 47, 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy Bị cáo tàng trữ gồm:

* 01 bao niêm phong dán kín, tại các mép dán của bao niêm phong có chữ ký của giám định viên, người liên quan Nguyễn Quý M và dấu của cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Tây Hồ.

Tịch thu sung công Nhà nước:

* 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu vàng, không kiểm tra được số Imei (Đã qua sử dụng).

* 01 (Một) ví giả da màu đen nhãn hiệu Wallet đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quý M:

* 01 chứng M nhân dân mang tên Nguyễn Quý M * 01 giấy phép lái xe mang tên bị cáo Nguyễn Quý M.

Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/11/2019. Tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

Tịch thu sung công Nhà nước:

* Số tiền 2.500.000đ (Của bị cáo M).

Theo Biên bản giao nhận tài sản ngày 19/07/2019. Tại kho bạc Nhà nước, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

III.Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Quý M phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự phúc thẩm.

IV.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. V.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 07/09 /2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 663/2020/HS-PT ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:663/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về