Bản án 66/2021/HS-ST ngày 29/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 66/2021/HS-ST NGÀY 29/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Tp Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2021/TLHS-ST ngày 18/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2021/QĐXXST-HS ngày 16/03/2021 đối với bị cáo:

Chu Anh V - sinh năm 1986; HKTT: không có; Nơi ở: số 63 T, phường H, quận H, H; Nghề nghiệp: không; Trình độ V hóa: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chu V Cao và bà Tô Thị Sinh; Theo lý lịch địa phương cung cấp và DCB số 66 ngày 17/12/2020 tại công an quận Ba Đình; Tiền án, tiền sự: 02 tiền sự năm 2002 đã hết thời hiệu và 02 tiền án: Bản án số 329/2008/HSST ngày 27/9/2008, Tòa án nhân dân quận Ba Đình xử 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ra trại ngày 07/01/2014, đã thi hành án phí ngày 23/4/2009; Bản án số 142/2016/HSST ngày 16/5/2016 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 10 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, ra trại ngày 14/12/2016, chưa thi hành án phí và hình phạt bổ sung; Bắt tạm giữ từ ngày 07/12/2020 - Có mặt tại phiên tòa;

* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Thu T (sinh năm 1975); HKTT: khối 3 Lê Lợi, Thành phố Vinh, Nghệ An; Nơi ở: 136 Q, B, H; - Vắng mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22h ngày 06/12/2020, Chu Anh V đi bộ lang thang trên phố Quán Thánh, phường Quán Thánh, Ba Đình để xem có ai sơ hở sẽ trộm cắp tài sản. Khi V đi qua ngõ 136 Quán Thánh thì phát hiện trong ngõ có 01 xe máy điện nhãn hiệu Xmen màu đỏ đen, biển kiểm soát 37MĐ2 – 11564 của chị Nguyễn Thị Thu Thuỷ (sinh năm 1975, HKTT : khối 3 Lê Lợi, Vinh, Nghệ An) để trong ngõ không có người trông coi, V lại gần, lắc thử cổ xe thì thấy không khoá nên đã dắt xe đi. V dắt bộ xe đi trên đường Yên Phụ, đến ngã ba Cửa Bắc – Yên Phụ, phường Trúc Bạch, Ba Đình thì bị Tổ công tác 113 – Công an thành phố Hà Nội phát hiện bắt giữ và đưa về trụ sở Công an phường Trúc Bạch để điều tra làm rõ (BL 41) Khoảng 22h30 phút ngày 06/12/2020, chị Nguyễn Thị Thu Thuỷ đã có đơn trình báo Công an phường Quán Thánh về việc bị trộm cắp chiếc xe máy điện có đặc điểm như trên (BL 42).

Cơ quan điều tra đã cho chị Nguyễn Thị Thu Thuỷ nhận dạng chiếc xe mà Chu Anh V trộm cắp, chị Thuỷ đã chỉ ra được đúng là chiếc xe của mình (BL 95) Bản kết luận định giá số 206/KLĐG ngày 23/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản – UBND quận Ba Đình kết luận: 01 xe máy điện nhãn hiệu XMEN màu đỏ - đen đã qua sử dụng trị giá 3 triệu đồng (BL 81) Tại Cơ quan điều tra, Chu Anh V khai nhận nội dung hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của bị can phù hợp biên bản hiện trường (BL 24 – BL 33), lời khai người bị hại (BL 71 – BL 76), biên bản dẫn giải (BL 44), vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án.

Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy điện Xmen màu đỏ đen, biển kiểm soát 37MĐ2 – 11564 cho chị Nguyễn Thị Thu Thuỷ (BL 87), chị Thuỷ không có yêu cầu đề nghị gì khác.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 05/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, bị cáo Chu Anh V bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: - Bị cáo Chu Anh V từ 08 đến 12 tháng tù . Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung. Về dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác về dân sự nên không xét.

Về vật chứng: 01 điện thoại Mastel màu xanh đen đã qua sử dụng có số sim 0333668944, là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người bị hại và các biên bản tài liệu khác có trong hồ sơ, đấy đủ cơ sở để kết luận: vào khoảng 22h ngày 06/12/2021, tại ngõ 136 Quán Thánh, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội, lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của chị Nguyễn Thị Thu T để chiếc xe máy trong ngõ không khóa cổ và không có người trông giữ, bị cáo Chu Anh V đã nhanh chóng thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy điện Xmen màu đỏ đen có BKS MDD-11564 của chị T, chiếc xe máy điện có trị giá tài sản là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu người khác, gây mất trật tự ổn định xã hội. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền sự và 02 tiền án. Các tiền sự năm 2002 tính đến nay đã hết thời hiệu. Bị cáo có 02 tiền án, trong đó tiến án năm 2008 tính đến nay đã được xóa. Tiền án năm 2016 chưa được xóa vì bị cáo chưa thi hành án phí và hình phạt bổ sung theo bản án số 142/2016/HSST ngày 16/5/2016. Do đó được xác định là tái phạm trong lần phạm tội này, bị cáo bị áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tài sản trộm cắp đã được thu hồi trả người bị hại. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự nên tòa không xem xét giải quyết.

[8]. Về vật chứng: trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Mastel màu xanh đen đã qua sử dụng số sim 0333668944, xét không liên quan đến vụ án nên phải trả lại cho bị cáo. Theo quy định tại Điều 106 bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ Điều 106. Điều 299, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Tuyên bố các bị cáo Chu Anh V phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Xử phạt : Bị cáo Chu Anh V 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/12/2020.

Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo Chu Anh V 01 điện thoại Mastel màu xanh đen đã qua sử dụng số sim 0333668944. Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình theo Biên bản bàn giao vật chứng só 107 ngày 12/3/2021.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2021/HS-ST ngày 29/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:66/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về