Bản án 66/2021/HSST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 66/2021/HSST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2021/TLST-HS, ngày 24 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 4 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đào Văn L, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1994; tại: ĐT, TN; Nơi cư trú: Xóm NS, xã PL, huyện ĐT, tỉnh TN.

Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đào Văn T, sinh năm 1971; Con bà: Mã Thị T, sinh năm 1972; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự, Tiền án: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/12/2020, tạm giam từ ngày 26/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Văn H, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1998; tại: ĐT, TN;

Nơi cư trú: Xóm TV, xã ĐL, huyện ĐT, tỉnh TN.

Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1972; Con bà: Đào Thị L, sinh năm 1974; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự, Tiền án: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/3/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa co bị cáo Nguyễn Văn H: Bà Nguyễn Thị Dung – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Kết Tập, sinh năm 1992 Nơi cư trú: Xóm NS, xã PL, huyện ĐT, tỉnh TN (có mặt) - Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Tất T, sinh năm 1973 (vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm AL, xã TT, thị xã PY, tỉnh TN.

2. Ông Đỗ Trọng S, sinh năm 1963(vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm TT, xã TT, thị xã PY, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 45 phút, ngày 17/12/2020 Tổ công tác của Công an xã Đông Cao, phối hợp với công an xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên tuần tra làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, thì phát hiện tại bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ (hướng Thái Nguyên - Hà Nội) 02 đối tượng nam giới ngồi trên xe mô tô BKS: 20F1: 55748 có biểu hiện liên quan đến ma túy, nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, 02 đối tượng khai nhận tên là Đào Văn L, sinh năm 1994, trú tại: Xóm NS, xã PL, huyện ĐT, tỉnh TN và Nguyễn Văn H, sinh năm 1998, trú tại: Xóm TV, xã ĐL, huyện ĐT, tỉnh TN, Đào Văn L đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 02 túi nilon mầu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất rắn mầu trắng đục (c khai đó là ma túy, loại Heroiene, do Lvà H góp tiền mua về để sử dụng chung). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong số vật chứng và đưa Lvà H về Cơ quan công an để giải quyết.

Hồi 20 giờ 30 phút, ngày 17/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên đã phối hợp với phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng 02 gói chất rắn mầu trắng thu giữ của Đào Văn L có khối lượng là 0,186 gam, rồi niêm phong trong phong bì kí hiệu K gửi phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành giám định.

Tại bản kết luận giám định số 70/KL-KTHS ngày 25/12/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất rắn màu trắng đục niêm phong trong phong bì kí hiệu K gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,186 gam.

Tại cơ quan điều tra, Đào Văn L, Nguyễn Văn H khai nhận: Do bản thân đều là những đối tượng nghiện ma túy, nên khoảng 12 giờ ngày 17/12/2020, sau khi ăn cưới tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xong, trên đường về phòng trọ của mình tại khu công nghiệp Điềm Thụy, huyện Phú Bình, Đào Văn L đã rủ Nguyễn Văn H góp tiền đi mua ma túy sử dụng chung, H đồng ý, H đưa cho Ltờ tiền mệnh giá 50.000đ rồi điều khiển xe mô tô Yamaha, BKS: 20F1- 557.48 trở Đào Văn L đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên mua ma túy để sử dụng. Khi đến nơi, H dừng xe trên hành lang quốc lộ 3 cũ đợi, còn Đào Văn L đi bộ vào một ngôi nhà có cửa xếp bằng sắt đóng kín nằm phía bên tay trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ theo hướng Thái Nguyên đi Hà Nội, rồi đưa số tiền 100.000đ (trong đó có 50.000đ của H và 50.000đ của Lương) qua lỗ nhỏ phía dưới cửa sát với nền bê tông vào bên trong, thì có người cầm tiền rồi đưa ra cho L02 túi nilon, bên trong đều chứa ma túy, loại heroine. Sau khi mua được ma túy trên, L cầm trên tay trái đi ra chỗ H đợi thì bị Tổ công tác của Công an xã Đông Cao kiểm tra phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Do có hành vi nêu trên, nên tại bản cáo trạng số 57/CT-VKSPY, ngày 23/3/2021 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố các bị cáo Đào Văn L, Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, sau khi kết thúc phần thẩm vấn công khai, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên thực hành quyền công tố tại phiên tòa trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng số 57/CT-VKSPY, ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đào Văn L, Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đào Văn L mức án từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2021; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ký hiệu K, bên trong chứa 0,158 gam heroine hoàn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu K; 01 phong bì niêm phong, ký hiệu L ghi mẫu lưu kho.

Ngoài ra còn đề nghị miễn án phí đối với các bị cáo và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận: Đối đáp với quan điểm của người bào chữa về việc đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo H dưới khung hình phạt là không có căn cứ, nên đề nghị HĐXX không chấp nhận.

Tại phiên tòa: Các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận việc truy tố, xét xử các bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các bị cáo không tranh luận gì với quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Nói lời sau cùng, các bị cáo mong HĐXX cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng và thành người có ích cho xã hội.

Người bào chữa cho cho bị cáo Nguyễn Văn H trình bày: Nhất trí với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên về việc xác định tội danh và các điều khoản áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên đề nghị HĐXX áp dụng bổ sung Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, anh Hoàng Kết Tập trình bày: Ngày 16/12/2020 anh có cho Nguyễn Văn H mượn chiếc xe mô tô BKS: 20F1- 557.48 để đi ăn cưới bạn, sau đó bị Công an xã Đông Cao bắt và thu giữ xe mô tô trên, nay đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên trả lại xe mô tô, nên không yêu cầu đề nghị gì.

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Tất T và ông Đỗ Trọng S trình bày: Vào khoảng 13 giờ, ngày 17/12/2020 khi đi qua đường Quốc lộ 3 cũ, thuộc địa phận xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên thì được Tổ công tác của Công an xã Đông Cao, thị xã Phổ Yên mời chứng kiến việc kiểm tra 02 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Quá trình kiểm tra các đối tượng khai tên là Đào Văn L và Nguyễn Văn H, sau đó đối tượng tên Lđã tự giác giao nộp cho tổ công tác 02 túi nilon, bên trong chứa chất rắn mầu trắng, Lvà H khai đó là ma túy, loại Heroine do Lvà H góp tiền mua về để sử dụng chung. Sau đó tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ các vật chứng trên và đưa Lvà H về cơ quan công an giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo Đào Văn L, Nguyễn Văn H tại phiên toà hôm nay là khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 12 giờ 45 phút ngày 17/12/2020, tại bên trái hành lang đường quốc lộ 3 cũ (hướng Thái Nguyên – Hà Nội) thuộc địa phận xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Đào Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,186 gam ma túy, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc số ma túy trên là Đào Văn L và Nguyễn Văn H mỗi người góp số tiền 50.000đ, sau đó Lcầm tiền, H trở Lđi vào ngôi nhà có cửa xếp bằng sắt nằm bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ (hướng Thái Nguyên - Hà Nội) thuộc địa phận xóm Kim Tỉnh, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên mua của một người (không rõ nam hay nữ) nhằm mục đích để sử dụng chung.

Hành vi tàng trữ trái phép 0,186 gam ma túy, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân do bị cáo Đào Văn L thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Khi thực hiện hành vi phạm tội Nguyễn Văn H và Đào Văn L đã thống nhất, bàn bạc cùng nhau góp tiền để đi mua ma túy, Nguyễn Văn H đã góp số tiền 50.000đ, sau đó điều khiển xe mô tô trở Đào Văn L đến địa điểm mua ma túy, với mục đích để cả hai sử dụng chung, do đó Nguyễn Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm là người giúp sức đối với số ma túy mà Đào Văn L đã tàng trữ. Bản cáo trạng số 57/VKSPY ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên đã truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ.

Khoản 1 Điều 249 của BLHS quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… c) Heroine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, nên cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự nhằm mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội do bị cáo thiếu rèn luyện, tu dưỡng nên đã mắc nghiện ma túy, để phục vụ cho nhu cầu bản thân, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên.

[4]. Xét các yếu tố về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng:

- Về nhân thân: Các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, từ nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 12/12, sau khi nghỉ học ở nhà đi làm công nhân, bản thân chưa có tiền án, tiền sự.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình – Do đó các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Văn H có ông nội là Nguyễn Văn Cường được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng và đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nên còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ khác đó là có thân nhân là người có công với cách mạng quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối với tình tiết mà Đại diện viện kiểm sát và Người bào chữa đề nghị HĐXX cho các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luât hình sự đó là bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật có phần hạn chế là không có căn cứ, nên không được chấp nhận.

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các yếu tố về nhân thân, HĐXX thấy rằng cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra hỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, mới đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo đều là người có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, các bị cáo phạm tội lần đầu và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, nên khi lượng hình cũng cần xem xét cho các bị cáo được hưởng lượng khoan hồng, xử phạt các bị cáo như mức đề nghị của đại diện viện kiểm sát vẫn đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Trong vụ án này bị cáo Đào Văn L phạm tội với vai trò chính, vừa là người khởi xướng, trực tiếp thực hiện tội phạm và được hưởng ít tình tiết giảm nhẹ hơn bị cáo H, nên cần có sự phân hóa tội phạm, xử phạt bị cáo Lmức án cao hơn bị cáo H.

Đối với quan điểm của Người bào chữa cho bị cáo H: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức án dưới khung hình phạt là không có căn cứ và không đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, nên HĐXX không được chấp nhận.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS, thì:

“5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên xét thấy các bị cáo đều là những đối tượng nghiện ma túy, là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7]. Việc xử lý đối tượng liên quan đến vụ án:

Liên quan đến vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho Đào Văn L, nhà có cửa sắt đóng kín bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ, nhưng do Lkhông xác định được chủ ngôi nhà và người bán ma túy, nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Hoàng Kết Tập là người đã cho Nguyễn Văn H mượn chiếc xe mô tô, BKS: 20F1- 557.48 sau đó H sử dụng vào việc đi mua ma túy để sử dụng, tuy nhiên anh Tập không biết H sẽ sử dụng vào việc phạm tội, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên đã không xử lý đối với Hoàng Kết Tập là phù hợp.

[8]. Về vật chứng vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “K”, bên trong chứa 0,158 gam Heroine hoàn lại sau giám định và 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “L” lưu vỏ bao mẫu - Xác định là vật cấm lưu thông, không còn giá trị sử dụng nên cần xử lý tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về chi phí tố tụng: Xét thấy các bị cáo bị kết án, nhưng là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khóa khăn, là đối tượng thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

[10]. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về căn cứ áp dụng pháp luật:

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (đối với bị cáo Đào Văn L).

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (đối với bị cáo Nguyễn Văn H).

2. Về Tội danh và quyết định hình phạt:

2.1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đào Văn L, Nguyễn Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2.2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Đào Văn L 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo 45 ngày để đảm bảo công tác thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2021.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo 45 ngày để đảm bảo công tác thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “K”, bên trong chứa 0,158 gam Heroine hoàn lại sau giám định và 01 phong bì niêm phong, ký hiệu “L” lưu vỏ bao mẫu (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên, ngày 16/3/2021).

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Điều 12, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đào Văn L và bị cáo Nguyễn Văn H.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2021/HSST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về