Bản án 66/2021/DS-ST ngày 10/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 66/2021/DS-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 10/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 366/2020/TLST-DS ngày 19/11/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2021/QĐXXST-DS ngày 29/03/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2021/QĐST-DS ngày 22/4/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng X.

Địa chỉ trụ sở: Số A, Phố L, phường H, quận M, TP. Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T, chức vụ: Tổng Giám đốc.

Người đại diện tham gia tố tụng của ngân hàng: Ông Nguyễn Chí C, chức vụ P. Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng X tại huyện K. Địa chỉ: ấp N2, thị trấn K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (theo Giấy ủy quyền số 33/NHCS-UQ, ngày 01/4/2020 của Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng X, huyện K. Ông C có mặt).

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1967 (vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Bĩnh Th, sinh năm 1964 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp T, xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 17/11/2020, đại diện nguyên đơn ông Nguyễn Chí C trình bày: Vào ngày 28/6/2007, Ngân hàng X (Phòng giao dịch huyện K) phê duyệt cho vợ chồng bà Nguyễn Thị T, ông Lê Bĩnh Th, vay số tiền 5.000.000 đồng, lãi suất 0,6%/tháng, thời hạn cho vay 36 tháng, kỳ hạn trả nợ 12 tháng/lần, hạn trả cuối cùng là ngày 19/6/2018, vay theo chương trình cho vay hộ nghèo, mục đích sử dụng nuôi heo. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên bà T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận, tính đến nay hộ bà T chỉ trả lãi được 340.000 đồng, còn nợ là 8.759.000 đồng, trong đó: vốn gốc là 5.000.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 30/10/2020 là 3.759.000 đồng. Mặc dù Ngân hàng đã phối hợp với chính quyền địa phương, đoàn thể vận động gia đình bà T thực hiện nghĩa vụ trả nợ để ngân hàng thu hồi nợ về cho Nhà nước nhưng không có kết quả.

Nay Ngân hàng X yêu cầu Toà án giải quyết buộc vợ chồng bà T có trách nhiệm hoàn trả số tiền trên cho ngân hàng và tiền lãi phát sinh cho đến khi thi hành xong khoản nợ theo mức lãi suất của hợp đồng tín dụng.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị T và ông Lê Bĩnh Th đã được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông, bà không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử, cũng như việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên toà, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện.

[2] Bà Nguyễn Thị T và ông Lê Bĩnh Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với đương sự nêu trên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Ngày 28/6/2007 Ngân hàng X (Phòng giao dịch huyện K) phê duyệt cho vợ chồng bà Nguyễn Thị T, ông Lê Bĩnh Th, vay 5.000.000 đồng, lãi suất 0,6%/tháng, thời hạn cho vay 36 tháng, kỳ hạn trả nợ 12 tháng/lần, hạn trả cuối cùng là ngày 19/6/2018, vay theo chương trình cho vay hộ nghèo, mục đích sử dụng nuôi heo. Trong quá trình thực hiện hợp đồng hộ bà T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, tính đến nay hộ bà T chỉ trả lãi được 340.000 đồng, còn nợ ngân hàng vốn lãi là 8.759.000 đồng.

[4] Khi tham gia giao dịch các bên đều có năng lực hành vi, tự nguyện giao kết, thỏa thuận với nhau, giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên bà T không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán, không trả tiền vốn và tiền lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận khi vay vốn, đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay tiền. Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà T có trách nhiệm trả tiền gốc và tiền lãi trả nợ cuối cùng trong hợp đồng vay vốn đã xác lập là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 463, 466, 468 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 91, 94, 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng X, buộc vợ chồng bà T có trách nhiệm thanh toán vốn lãi cho ngân hàng 8.760.000 đồng, trong đó: tiền gốc 5.000.000 đồng, tiền lãi 3.760.000 đồng.

[5] Đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách về việc chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, theo như nhận định nêu trên.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, bị đơn không cung cấp được các giấy tờ chứng minh thuộc trường hợp được miễn nộp án phí nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 463, 466, 468 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 91, 94, 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, được sửa đổi bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng X.

2/. Buộc bà Nguyễn Thị T và ông Lê Bĩnh Th có trách nhiệm trả cho Ngân hàng X (thông qua Phòng giao dịch Ngân hàng X tại huyện K, tỉnh Sóc Trăng) với tiền 8.760.000 đồng (Tám triệu bảy trăm sáu chục ngàn đồng), trong đó: tiền gốc 5.000.000 đồng, tiền lãi 3.760.000 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật.

3/. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T và ông Lê Bĩnh Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 438.000 đồng.

Ngân hàng X không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

4/. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thì hành bản án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2021/DS-ST ngày 10/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:66/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về