Bản án 66/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2019/TLST-HS, ngày 11 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

LÊ VĂN L (tên gọi khác: Không), sinh ngày 19/8/1996, tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn D, xã X, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Lê Văn Th, sinh năm 1966 và con bà: Lê Thị H (Đã chết). Vợ: Tướng Thị Th, sinh năm 1989. Con: Có 01 con sinh năm 2019 Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú, (Có mặt).

- Bị hại: Ông Đinh Văn Tr, sinh năm 1963.

Đa chỉ: Thôn D, xã X, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Thành, sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn D, xã X, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Nhng người làm chứng:

1. Bà Đinh Thị N, sinh năm 1936.

2. Bà Phan Thị Th1, sinh năm 1968.

Cùng địa chỉ: Thôn D, xã X, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

(Ông Tr, ông Th, bà Th1 có mặt; bà N có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Gia đình Lê Văn L, sinh năm 1996 và gia đình ông Đinh Văn Tr, sinh năm 1963, cùng trú tại thôn D, xã X, huyện Y, có mâu thuẫn, thù oán với nhau như sau: ngày 15/10/2011, Đinh Thế Tùng (con trai ông Đinh Văn Tr) có hành vi dùng dao chém gây thương tích ông Lê Văn Thành, sinh năm 1966 (ông Thành là bố đẻ của L), làm ông Thành bị tổn thương 15% sức khỏe và từ sự việc đó dẫn đến mâu thuẫn gia đình làm mẹ đẻ của L tự tử chết. Hành vi của Đinh Thế T đã bị xét xử bằng Bản án số 19/2012/HSST ngày 25/5/2012 của TAND huyện Hàm Yên, xử phạt Tùng 02 năm tù giam và buộc Tùng phải bồi thường cho gia ông Thành số tiền 21.025.600đồng, nhưng từ đó đến nay Tùng không tự nguyện thực hiện việc bồi thường cho gia đình ông Thành số tiền trên, do đó mâu thuẫn giữa gia đình L và gia đình ông Tr vẫn âm ỷ và kéo dài từ năm 2011 đến nay.

Khong 04 giờ sáng ngày 26/4/2020, sau khi đi uống rượu ở nhà bạn về, về đến nhà, khi ngồi uống nước, do bực tức vệc Tùng chém gây thương tích đối với bố mình, đến nay Tùng vẫn không tự nguyện bồi thường dân sự cho gia đình, nên L nảy sinh ý định chém ông Tr để trả thù, L đi vào bếp của gia đình cầm 01 con dao quắm có chiều dài cả chuôi là 46 cm, rồi điều khiển xe mô tô BKS 22H8-6519 (xe của gia đình L đăng ký tên ông Lê Văn Thành) đi đến nhà ông Tr, khi đến trước nhà ông Tr, L dừng xe mô tô ngoài cổng rồi đi bộ đến cửa nhà ông Tr, L dùng dao cắt đứt sợi dây buộc cửa, rồi giật mở cửa và đi vào trong nhà, khi vào trong nhà do trời tối, trong nhà đã tắt điện không nhìn rõ vị trí các vật dụng trong nhà, nhưng do khi nghe có tiếng động ông Tr và người nhà hô hoán nên L xác định được vị trí giường ngủ của ông Tr, L đến sát đầu giường của ông Tr rồi vung dao lên chém bừa về phía ông Tr, khi L vung dao chém, ông Tr đang ngồi trên giường sát tường nhà, cách chỗ L đứng khoảng 01 mét, quay mặt về phía L, tay cầm chiếc chăn băng lông chùm qua đầu và giơ lên vừa đỡ vừa lùi dần về phía cuối giường, L chém khoảng 4 đến 5 nhát và xác định đã chém trúng vào người của ông Tr nên dừng lại và cầm dao đi về nhà mình. Ông Đinh Văn Tr bị 01 vết thương ở mu bàn tay phải, 01 vết thương tại phần đuôi cung mày bên trái và 01 vết thương tại cánh tay trái, được người nhà đưa đến Trung tâm y tế huyện Hàm Yên điều trị.

Tại Kết luận giám định số 128/GĐKTHS ngày 02/6/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo vùng đuôi cung mày trái: 03%;

- Sẹo cánh tay trái: 01%;

- Sẹo mu bàn tay phải: 01%.

- Vết xước da ở mặt ngoài mu bàn chân phải được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án tại thời điểm giám định đã hết không để lại sẹo (Không phần trăm).

2. Cơ chế vật gây thương tích:

So đuôi cung mày trái, cánh tay trái, mu bàn tay phải là do vật sắc tác động gây nên.

3. Căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong Giám định Pháp y. Áp dụng: Chương 8 mục I điểm

1. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 05% (Năm phần trăm)./.” Cáo trạng số 60/CT-VKSHY, ngày 09/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố Lê Văn L về tội: “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 - Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Văn L theo tội danh, Điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử.

Tuyên bố: Lê Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 - Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Lê Văn L từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng.

- Về dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận được việc bồi thường thiệt hại trước khi mở phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại.

- Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao quắm, chiều dài cả chuôi là 46cm; 01 con dao quắm chiều dài cả chuôi là 58cm; 01 con dao tư có chiều dài cả chuôi là 52 cm; 01 chăn băng lông; 01 màn tuyn màu trắng.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và tuyên quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

Bị hại trình bày ý kiến bổ sung: Về trách nhiệm hình sự không nhất trí với mức án của Đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật. Về dân sự giữ nguyên quan điểm như biên bản thỏa thuận ngày 21/9/2020 là yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 14.000.000đồng (Mười bốn triệu đồng).

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng kết luận giám định, lời khai của bị hại cùng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Lê Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội.

Từ những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 04 giờ 30 phút đến 04 giờ 45 phút, ngày 26/4/2020, tại nhà ông Đinh Văn Tr, thôn D, xã X, huyện Y Lê Văn L, sinh năm 1996 trú tại thôn D, xã X, huyện Y đã có hành vi dùng dao quắm chém ông Đinh Văn Tr gây tổn hại cho sức khỏe của Đinh Văn Tr với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 05% (Năm phần trăm).

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 134 - Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác. Bị cáo nhận thức rõ việc dùng dao chém vào người khác là có khả năng gây thiệt hại đến sức khỏe của họ nhưng vẫn thực hiện. Vì vậy cần phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đến Công an huyện Hàm Yên đầu thú; bị cáo có đơn xin hưởng án treo có xác nhận của chính quyền địa phương. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự, cần áp dụng cho bị cáo để quyết định hình phạt cho phù hợp.

Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự và để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy không cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam, mà cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[4] Về dân sự: Trước khi mở phiên tòa bị cáo Lê Văn L và bị hại ông Đinh Văn Tr đã tự nguyện thỏa thuận về việc bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại với tổng số tiền là 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng); bị cáo nhất trí với yêu cầu của bị hại, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 10.000.000đồng (mười triệu đồng) hiện tạm gửi tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên và đề nghị ghi nhận trong bản án. Xét việc thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ của Lê Văn L 01 con dao quắm, chiều dài cả chuôi là 46cm. Xét thấy đây là công cụ, phương tiện phạm tội và ông Lê Văn Thành là chủ sở hữu không yêu cầu trả lại, nên cần tịch thu tiêu hủy; thu giữ tại nhà ông Đinh Văn Tr 01 con dao quắm chiều dài cả chuôi là 58 cm; 01 con dao tư có chiều dài cả chuôi là 52 cm; 01 màn tuyn màu trắng. Tại phiên tòa ông Tr xác định đã cũ không còn giá trị sử dụng và không cầu trả lại, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về án phí dân sự do bị hại và bị cáo thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường trước khi mở phiên tòa, do vậy bị cáo không phải chịu án phí dân sự đối với khoản tiền phải bồi thường.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào Điều 134 của Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 - Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê Văn L 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/9/2020).

Giao bị cáo Lê Văn L cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 của Bộ luật hình sự.

Trưng hợp bị cáo Lê Văn L thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, 92 Luật thi hành án hình sự.

2. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 590 - Bộ luật dân sự.

Công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo với bị hại: Bị cáo Lê Văn L phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông Đinh Văn Tr với tổng số tiền là 14.000.000đồng (Mười bốn triệu đồng). Trong đó ông Tr được nhận số tiền 10.000.000đồng (mười triệu đồng) hiện tạm gửi tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên theo quyết định chuyển vật chứng số 48/QĐ-VKSHY ngày 09/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền là 4.000.000đồng (Bốn triệu đồng).

Khon tiền phải bồi thường kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và ông Đinh Văn Tr có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chậm bồi thường thì phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm bồi thường tương ứng với thời gian chậm bồi thường. Lãi suất chậm bồi thường thực hiện theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy: 01 con dao quắm, chiều dài cả chuôi là 46cm; 01 con dao quắm chiều dài cả chuôi là 58 cm; 01 con dao tư có chiều dài cả chuôi là 52 cm;

01 chăn băng lông; 01 màn tuyn màu trắng.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2020 giữa Công an huyện Hàm Yên với Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Yên.

4. Áp dụng các Điều 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Buc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:66/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về