Bản án 66/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/HSST ngày 27/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2020/QĐXXST-HS ngày 13/4/2020 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN H, sinh năm 1990; ĐKHK và ở tại: số X ngách Y ngõ Z phố N, phường N, quận Đ, Hà Nội; Nghề nghiệp: tự do; Văn hoá: 7/12; con ông: Nguyễn Văn N; con bà: Trần Thanh T; Danh chỉ bản: 000000055, lập ngày 21/02/2020, Công an quận Cầu Giấy; Tiền án, tiền sự: 05 TA: Bản án số 24/HSST ngày 22/01/2009, Tòa án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 10 tháng 22 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” được trừ 22 ngày bị tạm giam, còn phải chấp hành 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thử thách 20 tháng. Trị giá tài sản 10.300.000 đồng (đã xóa); Bản án số 02/HSST ngày 05/01/2010, Tòa án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với 10 tháng tù của bản án số 24/HSST ngày 22/01/2009, buộc chấp hành hình phạt chung là 20 tháng tù. Trị giá tài sản 6.150.000 đồng. Ra trại ngày 20/6/2011 (đã xóa); Bản án số 236/HSST ngày 30/7/2012, Tòa án nhân dân quận Ba Đình xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Trị giá tài sản 500.000 đồng. Ra trại ngày 08/4/2013 (Chưa xóa); Bản án số 545/HSST ngày 29/11/2013, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Trị giá tài sản 8.000.000 đồng. Ra trại ngày 21/3/2016 (Chưa xóa); Bản án số 03/HSST ngày 11/01/2017, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 32 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Trị giá tài sản 7.000.000 đồng. Bản án số 151/HSPT ngày 09/3/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội sửa bản án sơ thẩm, xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” . Ra trại ngày 02/10/2018 (Chưa xóa); Vụ án này, bắt quả tang ngày 18/12/2019; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đoàn Văn B, sinh năm 1987; Chỗ ở: số A phố N, phường N, quận L, Hà Nội. (vắng mặt).

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1999; chỗ ở: Ngõ A phố D, phường Q, quận C, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23h45’ ngày 18 tháng 12 năm 2019, Tổ công tác Đội CSĐTTP về ma túy - Công an quận Cầu Giấy làm nhiệm vụ tại khu vực phố N, phường T, quận C, Hà Nội phát hiện Nguyễn Văn H và Đoàn Văn B có biểu hiện nghi vấn mua bán trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, cơ quan công an đã thu giữ: 01 (một) túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng trong túi áo khoác bên trái của H đang mặc. Tại chỗ, H khai nhận tinh thể màu trắng đó là ma túy đá, H mua về để bán lại cho B kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện, bắt quả tang. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật, đưa H và B về trụ sở để làm việc.

Ngoài ra, tổ công tác thu giữ của H: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen lắp sim số 0936124490; thu giữ của B: 01 (một) điện thoại Iphone 5 màu đen lắp sim số 0987657481 và 1.000.000 đồng tiền Việt Nam.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H tại số X ngách Y ngõ Z phố N, phường N, quận Đ, Hà Nội, cơ quan điều tra không thu giữ được gì liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định số 8292/KLGĐ-PC09 ngày 26/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 3,313 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai: Khoảng 23h ngày 18/12/2019, H nhận được cuộc gọi của Đoàn Văn B có số điện thoại 0987657481 gọi vào số 0936124490 của H hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy đá. H đồng ý, B hẹn H mang ma túy đến phố N để giao cho B. Sau đó, H bắt taxi một mình đi đến khu vực bãi rác T để mua ma túy. Tại đây, H gặp một người phụ nữ không quen biết và mua được 01 túi ma túy đá với giá 500.000 đồng. H cất ma túy mua được vào túi áo khoác rồi tiếp tục bắt taxi đi về phố N. Đến nơi, H xuống taxi, đi bộ đến trước số nhà A ngách B phố N để gặp B. Khi H và B đang chuẩn bị mua bán ma túy thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng tang vật. Xét nghiệm nước tiểu của Nguyễn Văn H cho kết quả âm tính với chất ma túy. Đoàn Văn B khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn H, phù hợp tang vật thu giữ, lời khai của người làm chứng và các tài liệu trong hồ sơ.

Đối với Đoàn Văn B là người đi mua ma túy về sử dụng nhưng chưa kịp mua thì bị bắt nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý. Xét nghiệm nước tiểu của Đoàn Văn B cho kết quả dương tính với chất ma túy. Cơ quan điều tra đã ra thông báo về địa phương nơi B cư trú biết, quản lý.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho H, do H không biết nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Quá trình điều tra xác định: điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen lắp sim số 0936124490 thu giữ của H và điện thoại Iphone 5 màu đen lắp sim số 0987657481 thu giữ của B là điện thoại các đối tượng sử dụng để liên lạc mua bán ma túy; số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) là tiền B để mua ma túy.

Bản cáo trạng số 103/CT-VKSCG ngày 26/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã truy tố Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã công bố, thái độ ăn năn hối cải.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn H theo tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản Cáo trạng số 103/CT-VKSCG ngày 26/3/2020 và đề nghị áp dụng điểm q khoản 2 điều 251, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 08 (tám) năm tù đến 08 (tám), 06 (sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo. Tịch thu sung công 02 chiếc điện thoại thu giữ và số tiền 1.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 18 tháng 12 năm 2019, tại khu vực trước cửa số nhà A ngách B phố N, phường T, quận C, Hà Nội, Nguyễn Văn H đang trao đổi mua bán trái phép 3,313 gam Methamphetamine cho Đoàn Văn B nhưng chưa mua bán xong thì bị Tổ công tác Đội CSĐTTP về ma túy - Công an quận Cầu Giấy phát hiện, bắt giữ cùng tang vật. Khi thực hiện hành vi bán ma túy cho B, Nguyễn Văn H đang có 03 tiền án chưa được xóa án nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Hành vi của Nguyễn Văn H đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tội danh và hình phạt quy định tại điểm q khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn thể hiện sự ăn năn hối cải, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Trách nhiệm hình sự và hình phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H, sinh năm 1990, bị cáo đã nhiều lần bị xét xử về các hành vi phạm tội và có thời gian dài chấp hành hình phạt. Như vậy, bị cáo đã có đủ năng lực, nhận thức để biết hành vi nào là vi phạm pháp luật. Dưới sự tuyên truyền rộng rãi của Nhà nước đối với tệ nạn ma túy, bị cáo đương nhiên biết hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm hại đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy, xâm hại đến trật tự an toàn xã hội, nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi mua bán ma túy thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi chủ quan, cố ý, mục đích thu lợi. Nhân thân bị cáo có 05 tiền án, trong đó có 03 tiền án chưa được xóa án thể hiện nhân thân rất xấu.

Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo xét thấy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo. Khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xét đến tình tiết giảm nhẹ của bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt. Hạn tù của bị cáo kể từ ngày bắt quả tang 18/12/2019. Xét bị cáo hiện đang tạm giam, chưa có thu lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự.

[5] Xử lý tang vật và án phí: Số ma túy thu giữ của bị cáo cho tịch thu tiêu hủy. Đối với 02 chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo và của Đoàn Văn Bình cùng số tiền 1.000.000 đồng là công cụ, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cho tịch thu sung công. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Nguyễn Văn H – sinh năm 1990 Phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

1. Căn cứ vào: điểm q khoản 2 điều 251, điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn H 08 (tám) năm, 03 (ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”, hạn tù kể từ ngày bắt qua tang ngày 18 tháng 12 năm 2019.

2. Căn cứ vào: Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; điều 136; điều 331; điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 21, điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án và danh mục kèm theo

Xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung công số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) hiện đang lưu giữ tại tài khoản số 3949.1049179 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cầu Giấy tại Kho bạc Nhà nước quận Cầu Giấy theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 01/4/2020 của Đội Cảnh sát ma túy - Công an quận Cầu Giấy.

- Đối với số vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy theo Biên bản giao nhận vật chứng số 145 GN/THA-CA ngày 23/4/2020 được xử lý như sau:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01(một) Phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn H và Giám định viên Phạm Đình Đ, trên mép dán phong bì niêm phong, bên trong 01 phong bì niêm phong có chứa: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 3,313 gam.

+ Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen lắp sim số 0936124490; 01 (một) điện thoại Iphone 5 màu đen lắp sim số 0987657481.

Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Đoàn Văn B vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về