TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, TP Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:
Phạm Văn H, sinh năm 1959 tại H. Nơi đăng ký thường trú: Số 8U19 L, phường L, quận L, thành phố H; nơi tạm trú: Số 2/33/37 L, phường L, quận L, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn S và bà Nguyễn Thị L (đều đã chết); có vợ là Vũ Thị D và 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Án số 35 ngày 29/5/1980 Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; án số 75/2008/HSST ngày 11/11/2008 Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên xử phạt 15 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (đều đã được xóa án tích); bị tạm giữ ngày 08/01/2020; tạm giam ngày 10/01/2020; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 10 giờ 55 phút ngày 08/01/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 41 L, phường L, quận L, H, tổ công tác Công an phường L phát hiện Phạm Văn H có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần phía trước bên trái H đang mặc 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy, thu giữ trong chiếc khăn quàng màu đỏ để ở giỏ xe đạp của H 02 gói giấy bọc nilon màu trắng đều chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 chiếc xe đạp mini màu xanh, 01 điện thoại di động Nokia và 01 chiếc khăn quàng màu đỏ. Tổ công tác đã đưa H cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Tại Kết luận giám định số 29/KLGĐ ngày 10/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:
Chất bột màu trắng chứa trong 01 gói giấy thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của H là ma túy, có khối lượng 0,1 gam, là loại Heroine.
Chất bột màu trắng chứa trong 02 gói giấy bọc nilon thu giữ trong giỏ xe đạp của H là ma túy, có khối lượng 0,4 gam, là loại Heroine.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn H khai nhận: Khoảng 06 giờ ngày 08/01/2020, H một mình đi xe đạp từ nhà đến khu vực đường tàu Lê Thánh Tông tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, H gặp và hỏi mua của một người phụ nữ không quen biết 02 gói ma túy loại 100.000đồng/gói và 01 gói ma túy loại 50.000đồng/gói. H đưa cho người phụ nữ đó 250.000đồng và nhận lại 03 gói ma túy (02 gói bọc nilon và 01 gói giấy màu trắng). H cất cả 03 gói ma túy vào trong chiếc khăn quàng đỏ để ở giỏ xe và điều khiển xe đạp đi ra bờ hồ Tam Bạc phía đối diện của nhà số 95 Quang Trung, Hồng Bàng, Hải Phòng để ngồi mua bán xe đạp. Đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, H đi xe đạp đến khu vực chợ Sắt, dừng xe và lấy 01 gói giấy màu trắng chứa ma túy ra khỏi giỏ xe cho vào túi quần bên trái phía trước đang mặc, rồi đi tìm mua nước cất ở khu vực chợ L để sử dụng ma túy. Khi đi đến khu vực trước cửa nhà số 41 L, phường L, quận L, H thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ. Ngoài ra H khai đây là lần thứ ba H mua ma túy của người phụ nữ trên ở khu vực đường tàu Lê Thánh Tông, hai lần trước đều mua 100.000đồng Heroine và đã sử dụng hết cho bản thân.
Tại Cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 14/4/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn H từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy và vỏ bao gói còn lại sau giám định; tịch thu tiêu hủy 01 chiếc khăn quàng. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ.
Đối với chiếc xe đạp mini màu xanh thu giữ của H, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là Vũ Thị D, sinh năm 1960, trú tại số 8U19 L, phường L, quận L, thành phố H, là vợ của H. D không biết việc H mượn xe để đi mua ma túy nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã trả lại chiếc xe cho bà D.
Đối với người phụ nữ bán ma túy cho H, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.
Đối với việc H khai đã từng mua ma túy của người phụ nữ không quen biết ở khu vực đường tàu Lê Thánh Tông 02 lần trước đây, ngoài lời khai của H không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ kết luận H tàng trữ ma túy nhiều lần.
Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh, hình phạt:
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, nội dung bản kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa. Thể hiện: Vào hồi 10 giờ 55 phút ngày 08/01/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 41 L, phường L, quận L, H, Phạm Văn H đã có hành vi cất giữ trái phép tổng cộng 0,5 gam Heroine để sử dụng cá nhân và bị bắt quả tang nên đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện ma túy.
- Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, hình phạt bổ sung:
[4] Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền án, đến nay dù đều đã được xóa án tích nhưng qua đó cho thấy bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém, không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần phải xử lý nghiêm.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng, án phí:
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 chiếc khăn quàng màu đỏ, xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.
[9] Về án phí: Bị cáo sinh năm 1959, tại thời điểm xét xử bị cáo đã trên 60 tuổi, theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi, bị cáo là “người cao tuổi” nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn H 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 08 tháng 01 năm 2020.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định có số 29/2020/PC09.
- Tịch thu tiêu hủy 01 khăn quàng đỏ học sinh.
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ, IMEI: 357253058190467.
(Theo biên bản giao, nhận tài sản vật chứng ngày 15/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng).
- Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Phạm Văn H.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 66/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 66/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về