Bản án 66/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2020; tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:66/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Ngọc N, sinh năm: 1987 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp 1, xã 2, huyện 3; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa:

6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn K, sinh năm: 1962 (Đã chết) và Nguyễn Thị H, sinh năm: 1964; Gia đình bị cáo có 03 anh em; bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 13/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Long Điền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Chấp hành xong quyết định ngày 17/02/2017.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/9/2020, chuyển tạm giam ngày 20/9/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đất Đỏ. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, Công an huyện Đất Đỏ phối hợp với Công an xã Phước Hội kiểm tra nhà của Lê Ngọc N (sinh năm: 1987) ở Ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Bà Rịa - Vũng phát hiện trên tủ quần áo trong phòng ngủ của N có 10 gói nylon màu trắng, được hàn kín hai đầu, bên trong có chất kết tinh không màu trong suốt, N khai nhận là ma túy tổng hợp do N mua để sử dụng nên Công an đã lập biên bản.

Tang vật thu giữ gồm: 10 gói nylon màu trắng được hàn kín, bên trong chứa chất kết tinh không màu, trong suốt; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen có số Imei 354492092524629 và số tiền 200.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ, N khai nhận:

Lê Ngọc N bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2016. Vào ngày 08/9/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên N dùng điện thoại Nokia màu đen gọi điện thoại cho 01 người đàn ông tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy. Sau đó N bắt xe ôm đi đến khu vực xã 2, huyện 3 để mua 10 gói ma túy của T với giá 3.000.000 đồng. Sau đó N đem số ma túy cất giấu trên đầu tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, N chưa kịp sử dụng thì ngày 11/9/2020 bị Công an huyện Đất Đỏ phối hợp cùng Công an xã Phước Hội kiểm tra phát hiện và thu giữ tang vật như vừa nêu trên. (BL 07,08, 44 đến 59).

Tại bản kết luận giám định số 438/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận: “Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 10 gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu vàng, có hình dấu của Công an xã Phước Hội – Công an huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Đặng Văn Tài, Lê Ngọc N, Phạm Văn Tùng, Cao Trí Thức, Diệp Thanh Quốc, gửi đến giám định có tổng khối lượng 4,0016 gam, là ma túy, loại Methamphetamine”. (BL 37).

Methamphetamine là chất ma túy không được sử dụng quy định tại danh mục số II Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ (Số thứ tự: 323) quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

* Xử lý vật chứng của vụ án:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ đã chuyển 01 gói niêm phong chứa ma túy (mẫu vật còn lại sau giám định, bên trong có chứa 3,8753 gam ma túy, loại Methamphetamine) được đánh số 438 ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen có số Imei 354492092524629 và số tiền 200.000 đồng đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ để lưu giữ chờ xử lý.

Qua điều tra Lê Ngọc N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trong quá trình điều tra N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Tại bản Cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 16/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ đã truy tố bị cáo Lê Ngọc N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lê Ngọc N từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen có số Imei 354492092524629; trả lại cho bị cáo số tiền 200.000 đồng, tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy (mẫu vật còn lại sau giám định, bên trong có chứa 3,8753 gam ma túy, loại Methamphetamine) được đánh số 438 ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố; không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Đất Đỏ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, tại nhà của Lê Ngọc N ở ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, N có hành vi tàng trữ trái phép 4,0016 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Đất Đỏ phối hợp cùng với Công an xã Phước Hội bắt quả tang, kết luận giám định chất ma túy tạm giữ là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 4,0016 gam. Hành vi của bị cáo Lê Ngọc N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi của bị cáo xâm phạm quyền quản lý của nhà nước đối với chất gây nghiện, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần tuyên một mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen có số Imei 354492092524629. Đây là điện thoại bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Số tiền 200.000 đồng. Đây là tiền cá nhân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

- 01 gói niêm phong chứa ma túy (mẫu vật còn lại sau giám định, bên trong có chứa 3,8753 gam ma túy, loại Methamphetamine) được đánh số 438 ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Đây là lượng ma túy bị cáo tàng trữ trái phép, nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt:

Lê Ngọc N 36 (Ba mƣơi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/9/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong chứa ma túy (Mẫu vật còn lại sau giám định, bên trong có chứa 3,8753 gam ma túy, loại Methamphetamine) được đánh số 438 ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Có chữ ký Phó Trưởng phòng Thượng tá Nguyễn Đức Thọ, chữ ký Giám định viên Võ Thanh Hoài, chữ ký Lê Minh Tú, chữ ký Đặng Văn Tài, chữ ký Phạm Văn Tùng, chữ ký Lê Ngọc N.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen có số Imei 354492092524629 (Điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng).

- Giao trả lại cho bị cáo Lê Ngọc N số tiền 200.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000818 ngày 16/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ.

(Vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ theo biên bản giao nhận vật chứng số 13/BB ngày 16/11/2020 và Biên lai thu tiền số 0000818 ngày 16/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Ngọc N phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều: 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng cáo, kháng nghị bản án trong thời hạn 15 ngày, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 11-12-2020); đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về