Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 212/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020, giữa các Đ sự:

- Nguyên đơn: Bà Thị Nh , sinh năm 1988; địa chỉ thường trú: Ấp M, xã H, huyện Q, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Tổ 11, khu phố L, phường H, thành phố A, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Minh Đ , sinh năm 1992; địa chỉ thường trú: Ấp D, xã B, huyện Th, tỉnh Cà Mau; tạm trú: Nhà trọ Huỳnh Kim H, Tổ 2, khu phố H, phường Kh, thị xã U, tỉnh Bình Dương; yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 18/6/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Thị Nh trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Thị Nh và ông Lê Minh Đ chung sống với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B, huyện Th, tỉnh Cà Mau cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 99/2013, ngày 15/4/2013. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng từ tháng 5/2014 vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, không tin tưởng nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5/2014 cho đến nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Nh yêu cầu được ly hôn với ông Lê Minh Đ .

- Về con chung: Quá trình chung sống, bà Nh và ông Đ có 01 con chung tên Lê Phương Th, sinh ngày 16/10/2013. Khi ly hôn, bà Nh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Lê Minh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại Bản tự khai ngày 14/9/2020, bị đơn ông Lê Minh Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Đ và bà Nh chung sống với nhau từ năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và ly thân từ năm 2014. Nay bà Nh yêu cầu ly hôn thì ông Đ đồng ý.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Phương Th, sinh ngày 16/10/2013. Khi ly hôn, ông Đ đồng ý để bà Nh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Thảo.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên phát biểu tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Thị Nh và ông Lê Minh Đ chung sống với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Th, tỉnh Cà Mau và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 99/2013, ngày 15/4/2013. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và ly thân từ tháng 5/2014. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bà Nh yêu cầu được ly hôn với ông Lê Minh Đ là có căn cứ; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Phương Th, sinh ngày 16/10/2013. Khi ly hôn, bà Nh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Đ đồng ý. Đề nghị Hội đồng xét xử giao cho bà Nh được nuôi dưỡng con chung.

- Về việc cấp dưỡng: Các Đ sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: Các Đ sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Bà Thị Nh có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Minh Đ và yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Theo kết quả xác minh, ông Lê Minh Đ đang cư trú tại địa chỉ: Tổ 2, khu phố H, phường Kh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc vắng mặt bị đơn: Bị đơn ông Lê Minh Đ vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu Toà án giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Đ theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Thị Nh và ông Lê Minh Đ chung sống với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Th, tỉnh Cà Mau và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 99/2013, ngày 15/4/2013. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và ly thân từ tháng 5/2014. Bà Nh yêu cầu được ly hôn, ông Đ đồng ý ly hôn.

Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà Nh và ông Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà Thị Nh yêu cầu ly hôn với ông Lê Minh Đ là có căn cứ chấp nhận.

[4] Về việc nuôi dưỡng con chung: Vợ chồng bà Nh và ông Đ có 01 con chung tên Lê Phương T, sinh ngày 16/10/2013. Hiện tại con tên Thảo đang sống với mẹ. Bà Nh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Đ đồng ý.

Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Cháu Lê Phương Th chưa đủ 07 tuổi hiện đang sống ổn định với mẹ. Xét thấy, yêu cầu được quyền nuôi con chung của bà Nh không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Thị Nh không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về tài sản chung và vay nợ chung: Các Đ sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Thị Nh phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các điều 28, 35, 39, 146, 147, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các điều 56, 81, 82, 83, 84, 85 và Điều 86 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thị Nh về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” với bị đơn ông Lê Minh Đ như sau:

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Bà Thị Nh được ly hôn với ông Lê Minh Đ .

1.2 Về việc nuôi con chung: Giao cho bà Thị Nh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Phương Th, sinh ngày 16/10/2013.

Bà Thị Nh và ông Lê Minh Đ đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Ông Lê Minh Đ được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Lê Minh Đ lạm dụng quyền đi lại thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Thị Nh có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Lê Minh Đ . Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3 Về tài sản chung và vay nợ chung: Các Đ sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Thị Nh phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm; khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0038166 ngày 24/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, bà Nh không phải nộp thêm.

3. Về quyền kháng cáo:

3.1 Bà Thị Nh có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

3.2 Ông Lê Minh Đ vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về