Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ ÔN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 229/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Bích V, sinh năm 1994. (Có mặt)

Địa chỉ: ấp V2, xã V3, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh S, sinh năm 1993. (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp T1, xã T2, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai cùng ngày 30/6/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Bích V trình bày: Chị và anh Nguyễn Thanh S thành hôn vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T2, huyện T, tỉnh Vĩnh Long ngày 14/8/2018. Thời gian vợ chồng chung sống gần 02 năm lúc đầu có hạnh phúc, sau thường phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, chị yêu cầu được ly hôn với anh S. Về con chung, vợ chồng chị có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Tường V1, sinh ngày 01/7/2018, hiện đang sống chung với anh S. Chị V yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung chị V không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 05/8/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Thanh S trình bày: Anh thống nhất như lời trình bày của chị V về thời gian thành hôn, thời gian sống chung, con chung và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng. Anh xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị V, anh đồng ý ly hôn với chị V. Về con chung là cháu Nguyễn Ngọc Tường V1 hiện đang sống chung với anh, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Anh không yêu cầu chị V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung anh không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành ngày 05/8/2020 nguyên đơn, bị đơn tự nguyện ly hôn và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, cụ thể như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Bích V và anh Nguyễn Thanh S thuận tình ly hôn.

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc Tường V1, sinh ngày 01/7/2018 cho chị Lê Thị Bích V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thanh S không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Lê Thị Bích V tự nguyện nộp toàn bộ số tiền 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí ly hôn.

Tại đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con ngày 05/8/2020 bị đơn anh Nguyễn Thanh S trình bày: Về quan hệ hôn nhân anh giữ nguyên ý kiến thuận tình ly hôn. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết. Về con chung anh yêu cầu thay đổi quyền nuôi con do chị V không có khả năng nuôi dưỡng con chung tốt vì hiện tại chị V đang nuôi 02 đứa con riêng và từ khi sinh con đến nay, chị V nhiều lần bỏ con mà đi. Hiện tại anh đang chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V1 chu đáo nên anh yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chị V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Tại biên bản xác minh ngày 06/8/2020 bà Nguyễn Thị Bé M là mẹ ruột của chị Lê Thị Bích V trình bày: Thời gian chị V và anh S sống chung xảy ra mâu thuẫn do anh S thường xuyên nhậu nhẹt, chị V nhiều lần giận nên đưa con về sống chung với bà, hết giận chị V ẳm con về sống với anh S. Đầu năm 2020 vợ chồng chị V đi thành phố làm thuê, gửi cháu V1 cho bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng, đến tháng 6/2020 chị V bị bệnh Amidan nên về quê điều trị bệnh. Sau khi xuất viện, chị V đến rước con, gia đình anh S không cho rước nên mâu thuẫn vợ chồng chị V trầm trọng hơn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do anh S thường xuyên ăn nhậu và muốn ly hôn với chị V. Hiện bà đang phụ chị V nuôi 02 đứa con riêng của chị V nhưng nếu chị V được quyền nuôi cháu V1, bà đồng ý phụ chị V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các con chị V đến trưởng thành.

Tại biên bản xác minh ngày 06/8/2020 bà Lê Thị Bé N là mẹ ruột của anh Nguyễn Thanh S trình bày: Thời gian vợ chồng chị V và anh S sống chung với gia đình bà. Chị V thường xuyên giận anh S ẳm con bỏ đi 01, 02 tháng mới về, chị V đi rất nhiều lần, lần cuối vào tết năm 2020. Sau tết, vợ chồng chị V gửi cháu V1 cho bà chăm sóc, nuôi dưỡng để lên thành phố Hồ Chí Minh làm thuê. Đến tháng 6/2020, chị V về nhà mẹ ruột để đi mổ Amidan cũng không thông báo cho bà biết. Sau khi chị V xuất viện, chị V có nhờ người anh đến rước cháu V1, bà không cho rước do anh S không đồng ý nên chị V gửi đơn xin ly hôn. Bà đã khuyên anh S để cháu V1 cho chị V nuôi dưỡng nhưng anh S không đồng ý và dành quyền nuôi con. Nếu anh S được quyền nuôi con, bà sẽ phụ anh S chăm sóc nuôi dưỡng cháu V1 đến trưởng thành.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên ý kiến đã trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Ôn phát biểu:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện cơ bản đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không đến tham gia phiên tòa là không thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự

- Về hướng giải quyết vụ án:

Đề nghị áp dụng các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Lê Thị Bích V được ly hôn với anh Nguyễn Thanh S.

- Về con chung: Đề nghị giao cháu Nguyễn Ngọc Tường V1, sinh ngày 01/7/2018 cho chị Lê Thị Bích V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thanh S không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền nghĩa vụ thăm nôm, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Bích V có nghĩa vụ nộp 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự có mặt của đương sự: Bị đơn anh Nguyễn Thanh S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh S.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Bích V và anh Nguyễn Thanh S thành hôn năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T2, huyện T, tỉnh Vĩnh Long ngày 14/8/2018 nên xem đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Quá trình chung sống, chị Lê Thị Bích V và anh Nguyễn Thanh S có xảy ra mâu thuẫn do anh S thường xuyên ăn nhậu, chị V nhiều lần bỏ đi, gia đình 02 bên đã hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt kết quả. Mặc khác, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải nhằm giúp đỡ chị V, anh S đoàn tụ nhưng chị V, anh S thuận tình ly hôn. Chứng tỏ, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị V, anh S lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của chị V, anh S là phù hợp theo quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Giữa chị Lê Thị Bích V và anh Nguyễn Thanh S có con chung là Nguyễn Ngọc Tường V1, sinh ngày 01/7/2018 hiện đang sống chung với anh S. Anh S cho rằng từ khi sinh con đến khi phát sinh mâu thuẫn, chị V thường bỏ đi, cháu V1 do anh và gia đình anh chăm sóc nuôi dưỡng. Hiện tại, chị V không có khả năng nuôi dưỡng con chung do chị V đang chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con riêng là không có căn cứ. Bỡi lẽ, bà Lê Thị Bé N (mẹ ruột anh S) xác định: chị V, anh S gửi cháu V1 cho bà chăm sóc nuôi dưỡng từ đầu năm 2020 đến tháng 6/2020, chị V đến rước cháu V1, bà không cho rước do anh S không đồng ý nên chị V gửi đơn xin ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy: Cháu Nguyễn Ngọc Tường V1 từ nhỏ đến đầu năm 2020 do chị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Anh S và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V1 từ tháng 01/2020 đến nay nhưng việc anh S nuôi con không phải là sự tự nguyện thỏa thuận của chị V. Chị V nhiều lần đến rước cháu V1 về chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng anh S và gia đình ngăn cản dẫn đến phát sinh tranh chấp. Về nguyên tắc, con dưới 36 tháng được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Mặc khác, anh S có văn bản thay đổi quyền nuôi con, Tòa án đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng anh S vẫn vắng mặt không lý do, chứng tỏ anh S không tha thiết việc nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc anh Nguyễn Thanh S giao con chung là Nguyễn Ngọc Tường V1, sinh ngày 01/7/2018 cho chị Lê Thị Bích V nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị Lê Thị Bích V yêu cầu được nuôi con nhưng chị V không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn chị Lê Thị Bích V và anh Nguyễn Thanh S không yêu cầu giải quyết nên không xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Lê Thị Bích V có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát có căn cứ chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 55, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự tự nguyện ly hôn giữa chị Lê Thị Bích V và anh Nguyễn Thanh S.

2. Về con chung: Buộc anh Nguyễn Thanh S giao cháu Nguyễn Ngọc Tường V1, sinh ngày 01/7/2018 cho chị Lê Thị Bích V chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thanh S không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Lê Thị Bích V có nghĩa vụ nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0016232 ngày 30/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Ôn, chị V đã nộp đủ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Nguyên đơn được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt nên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) kể từ ngày nhận được bản án hoăc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Ôn - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về